Vào mùa đông khắc nghiệt, thành phố C đã có một trận tuyết dày hiếm hoi. Chỉ trong một ngày, tuyết trắng bao phủ toàn bộ thành phố, không khí lạnh lẽo khiến mọi người đi đường đều run lẩy bẩy.
Thiệu Lương Vỹ quấn chặt chiếc áo khoác màu xanh quân đội của mình, cẩn thận nhét đồ vào túi áo khoác, phòng ngừa mất đi hơi ấm.
Ông đã không về cả đêm vì tăng ca, mặc dù đã nhờ hàng xóm trông nom nhưng ông vẫn không kìm được thở dài khi nghĩ đến đứa trẻ tội nghiệp ở nhà, vừa xuống xe Thiệu Lương Vỹ đã vội vã chạy về, vì đường đóng băng nên ông còn suýt ngã khi chạy.
Mà có ngã cũng không sao, nhưng không thể làm vỡ những thứ đã mua.
Sau khi lên lầu, ông đang định lấy chìa khóa ra thì cửa từ bên trong bật mở.
Thiệu Lương Vỹ kinh ngạc ngẩng đầu lên, cô bé sau cánh cửa thò đầu ra mỉm cười: “Chú Thiệu, chú đã về rồi ạ.”
“Sao con cứ thế mở cửa mà không hỏi là ai? Chú của con có chìa khóa nên không cần con mở.” Bước vào trong, ông mắng cô: “Nếu lỡ con mở cửa ra phát hiện không phải chú của con mà là người ngoài thì phải làm sao?”
“Điều đó là không thể. Con nhận ra bước chân của chú. Chú vừa bước vào hành lang, con đã biết người đó là chú rồi.”
“Con chắc chắn thế à?”
“Chắc chắn ạ.” Cô chỉ vào tai mình, “Tai con thính lắm đó.”
Thiệu Lương Vỹ mỉm cười, từ trong lòng lấy ra một củ khoai lang nướng nóng hổi, cô bé hồ hởi reo hò, vui vẻ ngửi mùi khoai lang nướng một lúc rồi mới cẩn thận bẻ đôi, nửa lớn đưa cho ông.
“Con ăn một mình đi, chú đã ăn rồi.”
Nhưng cô nhất quyết bắt ông ăn: “Chú không ăn thì con cũng không ăn.”
Thiệu Lương Vỹ biết mình không thể lay chuyển được cô bé nên phải bẻ một miếng nhỏ và đưa phần còn lại cho cô, lúc đó cô bé mới bắt đầu ăn phần của mình.
Nhìn cô bé đang cười tươi trước mặt, Thiệu Lương Vỹ thầm thở dài. May mắn thay, ông là người phát hiện ra một cô bé thông minh đáng yêu như vậy, nếu không thì không biết sẽ xảy ra chuyện gì.
Nhắc mới nhớ, đó đã là chuyện của hai tháng trước.
Để truy bắt một tù nhân trốn trại khỏi tỉnh, ông đã lái xe cùng một số anh em cảnh sát hình sự ròng rã hai ngày, xuyên qua hai thành phố, cuối cùng đuổi đến một vùng nông thôn hẻo lánh, ông đã bắt được hắn dưới chân núi.
Họ đã không ngủ suốt hai ngày nên tạm thời tìm một nhà trọ địa phương để chợp mắt. Đây là nhà trọ sạch sẽ duy nhất trong huyện nhỏ dưới chân núi, đêm đó họ thay phiên nhau trông coi tên tội phạm. Đến lượt Thiệu Lương Vỹ đã là sáng sớm hôm sau. Ông ra ngoài đi dạo, hút thuốc, đang nghĩ xem có thể ngắm bình minh ở đây hay không, Thiệu Lương Vỹ bỗng nhìn thấy một cô bé đang ngồi ở bên kia đường. Lúc đó thời tiết đã trở lạnh, người dân địa phương đều đã mặc áo khoác dày, dù khó khăn đến mấy cũng phải mặc áo len dày để chống rét, nhưng cô bé chỉ mặc một chiếc áo khoác mỏng mùa thu, đôi giày vải ở chân cô bị thủng lỗ chỗ, các ngón chân bê bết máu lộ ra bên ngoài.
Khi ấy Thiệu Lương Vỹ đã giật mình.
Thậm chí rất nhiều năm sau, ông cũng không thể quên được cảnh tượng đó.
Trong mùa đông lạnh giá, trên con phố vắng, cô bé rách rưới đang chia sẻ miếng lương khô với một con mèo hoang.
Miếng lương khô ít ỏi như vậy thậm chí còn không đủ để cô bé no bụng, thế mà cô vẫn đưa một nửa số đó cho mèo.
Nếu là đứa trẻ được nuôi dưỡng thì không thể nào xuất hiện trên đường như thế này vào lúc năm, sáu giờ sáng được, cô bé này trông có vẻ là một đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa.
Tại sao một đứa trẻ như vậy lại lang thang đầu đường?
Trong thành phố của ông hầu như không còn những đứa trẻ như vậy lang thang trên đường phố nữa, nếu có cũng sẽ nhanh chóng được người cưu mang.
Nhưng ông nhìn quanh, đây là một thôn miền núi lạc hậu, nhà nào cũng nghèo khổ, cho dù có xuất hiện một đứa trẻ đi lạc, trừ khi gặp được một gia đình tốt bụng, nếu không sẽ không có trạm cứu hộ địa phương nào có thể giúp đỡ chúng.
Thiệu Lương Vỹ bản thân không có con cái, nhưng nhìn cảnh tượng này trong lòng rất chua xót, xoay người dập tàn thuốc đi vào khách sạn, xin bà chủ mấy cái bánh bao nhân thịt vừa mới nướng xong (được dùng để làm bữa sáng cho khách), ông cẩn thận gói vào túi, lấy thêm một chai sữa đậu nành nóng, nhưng vừa ra ngoài thì phát hiện cô bé kia đã biến mất, ông xách theo túi bánh bao nóng hổi đi một vòng nhưng vẫn không tìm thấy, đành chán nản quay trở lại.
Bà chủ vừa nãy ngẩng đầu lên tò mò xem ông định làm gì, giờ thấy ông quay lại liền đoán: “Anh đã nhìn thấy một cô nhóc lang thang phải không?”
“Đúng vậy, tôi vừa thấy cô bé ngồi ở bên ngoài. Bà chị, chị có biết cô bé không? Nó là con cái nhà ai?”
“Chẳng phải con cái nhà ai cả.” Bà chủ nhà thoáng tránh ánh mắt của ông, thở dài: “Cũng không biết là từ đâu đến đây xin ăn, hồi trước trông nó đáng thương, cho nên tôi mới cho nó một ít đồ ăn. Than ôi… nhà ai cũng khó khăn, một người họ hàng của tôi cả đời sinh được sáu người con gái, nhưng không có được con trai nên cuối cùng đành phải cho đi đứa con út còn đỏ hỏn, họ không đủ khả năng nuôi nhiều con gái như vậy.”
Vừa nghe Thiệu Lương Vỹ đã hiểu ngay.
Ở một nơi lạc hậu như vậy, quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại, chính sách kế hoạch hóa gia đình không thể kiểm soát được khu vực nông thôn nên một số gia đình có nhiều con gái, họ phải giải quyết theo cách riêng của họ.
Hôm nay ông và đồng đội sẽ phải áp giải tên tội phạm về thành phố.
Tuy nhiên, ông ngồi xuống suy nghĩ hồi lâu, hình ảnh cô bé tội nghiệp ngồi xổm dưới đất nhai lương khô không ngừng hiện lên trong đầu. Nếu cứ như vậy rời đi, lương tâm của ông nhất định sẽ không thể vượt qua rào cản này. Vì vậy Thiệu Lương Vỹ đã kể lại với các đồng nghiệp, rồi một mình đến gặp lãnh đạo địa phương để hỏi thăm, sau đó ông mới được biết rằng từng có một trại trẻ mồ côi do chính quyền địa phương tài trợ ở vùng núi gần đó. Tuy nhiên do một trận lở đất vào đầu năm nay, phần lớn trại trẻ mồ côi ban đầu đã bị sập, giáo viên duy nhất còn sót lại đã đưa mấy đứa trẻ xuống núi, liên hệ với các cơ quan phúc lợi ở những nơi khác và sắp xếp việc nhận nuôi các em, chỉ còn lại một bé gái không được nhận nuôi. Cũng không biết tại sao, một đêm nọ, người giáo viên lại vội vã rời đi, cô bé kia cũng biến mất. Vài ngày sau, có người nhìn thấy cô bé lang thang một mình nơi đầu đường ở thị trấn này.
“Anh nhận nuôi sao? Muốn nhận nuôi thì cứ đưa nó đi là được.” Lãnh đạo địa phương nói.
Thiệu Lương Vỹ lập tức sửng sốt: “Chỉ đơn giản như vậy đã có thể đưa nó đi sao? Không cần ký giấy nhận con nuôi hay gì à?”
Vì lúc đó ông mặc thường phục, cũng không tiết lộ danh tính là cảnh sát nên huyện trưởng xua tay nói: “Có giấy tờ gì để ký? Cô bé ấy là một đứa trẻ không ai muốn, cũng không phải người huyện chúng tôi. Anh chịu cho nó miếng cơm thì cứ đưa đi thôi. Trước đây tôi từng nghe một gã to xác ngốc nghếch chỗ chúng tôi nói rằng cô bé khá xinh đẹp, nếu thực sự không có ai nhận nuôi nó, có khi hai ngày nữa nó sẽ bị bắt đi làm con dâu nuôi từ bé cho người ta.”
Thiệu Lương Vỹ nghe vậy, trong ngực toát ra một luồng khí nóng, nhưng sau đó lại nghĩ, quên đi, trời cao hoàng đế xa[27], một nơi như thị trấn nhỏ này thật sự không có cách nào giải quyết được chuyện này, mà đứa trẻ kia cũng không thể ở lại đây nữa.
(*) [27]Trời cao hoàng đế xa (phiên âm: tiān gāo huáng dì yuǎn), vốn dùng để chỉ những nơi xa xôi mà quyền lực trung ương không thể chạm tới. Ngày nay, nó thường đề cập đến việc tổ chức ở xa cơ quan lãnh đạo và có thể tự đưa ra quyết định khi gặp vấn đề mà không bị gò bó. Nghĩa là pháp luật của nhà vua không thể kiểm soát được nó.
Vì vậy, ông nhờ các đồng nghiệp khác trông chừng tên tội phạm, bảo họ đợi mình một lúc. Sau đó Thiệu Lương Vỹ lái xe một mình đi tìm kiếm khắp các con phố, gần như lục tung mọi ngóc ngách trong thị trấn. Cuối cùng vẫn phải hỏi thăm mấy người mới tìm thấy dấu chân của đứa trẻ dưới chân núi. Ông dừng xe, lần theo dấu chân suốt chặng đường để tìm ra cô bé. Một lần nữa Thiệu Lương Vỹ lại nhìn thấy cảnh tượng khiến ông khắc khoải suốt quãng đời còn lại.
Đứa trẻ kia đang tự xây tổ cho mình.
Lê đôi chân lạnh cóng của mình, cô bé nhặt được rất nhiều cành khô và cỏ dại từ đâu đó, hiển nhiên cô bé khá thông minh, cô chọn một nơi khô ráo và hẻo lánh, một cái hốc giữa thân cây to lớn, vừa vặn tạo thành một khu vực nhỏ, cô bé đang cố trèo lên hốc cây, giống như một con chim đang xây tổ cho mình, tự xây cho mình một nơi có thể che mưa che gió.
Nhưng đứa trẻ ngốc nghếch này, cô bé làm thế nào cũng không thành, bởi vì nơi đó dù có kiên cố đến đâu cũng không thể chịu được bão táp mưa sa và gió lạnh buốt giá.
Đột nhiên, cô bé dường như nhận ra điều gì đó, cô nắm chặt cành cây trong tay rồi từ từ quay lại.
Trong khoảnh khắc, Thiệu Lương Vỹ rõ ràng nhìn thấy vẻ hoảng sợ trong mắt cô bé, có lẽ là cảm giác bị theo dõi từ phía sau khiến cô bé nhớ tới một ít ký ức không tốt đẹp. Nhưng rất nhanh, ánh mắt của cô bé đã thay đổi, cô trở nên mạnh mẽ, vừa nhặt cành cây thô nhất lên vừa che nó trước cơ thể nhỏ bé của mình, cô bé mở to mắt nhìn ông.
Khuôn mặt cô bẩn thỉu, tóc bù xù nhưng đôi mắt lại trong sáng, quả thực là một cô bé có vẻ ngoài ưa nhìn như huyện trưởng nói.
Thiệu Lương Vỹ cúi người xuống, cố gắng hết sức kiềm chế khí thế cùng uy quyền của mình, ấm áp nói: “Cô bé, cháu đừng sợ, chú không phải người xấu.”
Sau này ông nghĩ lại, mẹ kiếp câu nói ấy chẳng phải là lời mở đầu của kẻ xấu sao?
Nhưng cô bé này chỉ đắn đo một lát, thực sự tin vào lời nói nhảm của Thiệu Lương Vỹ, cô thả cành cây trong tay xuống rồi đi về phía ông.
Câu đầu tiên cô bé nói với ông là: “Chú ơi, chú còn bánh bao nhân thịt không ạ?”
“Làm sao cháu biết… cháu đã nhìn thấy tôi?”
Cô bé không nói gì, chỉ nhìn đôi tay trống rỗng của ông rồi thất vọng liếm đôi môi khô khốc.
Thiệu Lương Vỹ dịu dàng nhìn vào mắt cô bé từ một góc gần như ngang tầm với cô, “Nói cho chú biết, cháu tên gì và bao nhiêu tuổi?”
“Cháu tên là Tiểu Nhu, Nhu trong ôn nhu[28]. Năm nay cháu tám tuổi.” Giọng cô bé trong trẻo, đôi mắt trong veo, từ lời nói của Tiểu Nhu không thể đoán được cô bé là một đứa trẻ lang thang bị bỏ rơi.
(*) [28]ôn nhu (tiếng Trung: 温柔): dịu dàng, thuỳ mị, mềm mại, hoà nhã, điềm đạm (thường dùng đối với nữ giới.
Tám tuổi, theo lẽ thường, lẽ ra cô bé chỉ là một đứa trẻ học lớp 3. Trong khi những cô bé ở gia đình khác đang tận hưởng tình yêu thương của cha mẹ và sự dạy dỗ của thầy cô thì đứa trẻ trước mặt với bộ quần áo rách rưới, bàn ngón chân đã bị mòn mỏi, cô bé đang đi tìm cành cây khắp nơi, học theo những con thú nhỏ tự xây tổ cho mình.
Thiệu Lương Vỹ chợt cảm thấy tim mình như bị ai đó bóp mạnh, vô cùng đau lòng: “Chú dẫn cháu đi mua bánh bao thịt, mua thật nhiều bánh bao, có được không?”
Tiểu Nhu nhìn ông một lúc.
Ông cứ đứng yên để cô bé nhìn mình.
Mãi một lúc lâu sau, Thiệu Lương Vỹ mới nhận ra rằng đứa trẻ này đang dùng cách độc đáo của mình để đánh giá xem những người lớn trước mặt có đáng tin cậy hay không. Bởi vì trước đó, nhiều người đã chìa tay về phía Tiểu Nhu và nói rằng họ sẽ cho cô bé rất nhiều đồ ăn ngon, nhưng Tiểu Nhu không đồng ý một ai cho đến khi gặp Thiệu Lương Vỹ.
Hơn hai phút trôi qua, cô bé gật đầu, đặt tay mình vào lòng bàn tay Thiệu Lương Vỹ.
Thiệu Lương Vỹ nhìn bàn tay nhỏ nắm chặt trong lòng bàn tay mình, rõ ràng là làn da trắng nõn mềm mại nhưng lại đầy những vết sẹo lớn nhỏ, nhìn đôi giày rách nát đến biến dạng cùng những ngón chân chịu tổn thương của cô bé, ông cúi xuống và bế Tiểu Nhu lên.
Đôi mắt cô bé mở to vì ngạc nhiên.
“Đừng sợ, chú sẽ không làm hại cháu đâu.”
Tiểu Nhu gật đầu. Lúc rời đi, Thiệu Lương Vỹ để ý thấy cô bé đang quay đầu lại nhìn những cành cây và cỏ dại mà mình đã nhặt được.
“Cháu đừng lo, chú sẽ cho cháu một căn nhà to hơn, chắc chắn hơn để ở.”
Cứ thế, Thiệu Lương Vỹ đã đưa đứa trẻ này trở về thành phố của mình.
Thật ra ông chưa bao giờ nghĩ tới việc nhận nuôi đứa trẻ này, bởi vì ông chỉ có một mình, ngày thường còn sống lôi tha lôi thôi chứ đừng nói đến việc nuôi dạy một cô bé như vậy, hơn nữa vì lý do nghề nghiệp nên ngày nào ông cũng không thể ở nhà cả ngày để trông chừng trẻ con. Nên đầu tiên ông đã liên hệ với trại trẻ mồ côi địa phương muốn gửi cô bé đến đó, nhưng ai có thể ngờ rằng khi nghe tin mình sắp được đưa đến trại trẻ mồ côi, cô bé đột nhiên khóc toáng lên vì sợ hãi. Đây là là lần đầu tiên Thiệu Lương Vỹ nhìn thấy Tiểu Nhu khóc kể từ sau khi ông đưa cô bé về, ông nghĩ Tiểu Nhu chắc hẳn đã có một cuộc sống tồi tệ ở trại trẻ mồ côi trước đây, vậy nên cô bé mới bài xích nơi đó như vậy. Bất kể ông có khuyên nhủ thế nào cũng vô ích, không còn cách nào khác, Thiệu Lương Vỹ phải đưa cô bé về nhà mình chăm sóc.
Dần dần, ông phát hiện ra đứa trẻ này hoàn toàn không cần mình đặc biệt quan tâm chăm sóc.
Đêm đầu tiên đến nhà Thiệu Lương Vỹ, cô bé ngoan ngoãn ngủ trên chiếc giường nhỏ ông chuẩn bị, ngày hôm sau cô dậy sớm đợi ông. Khi tỉnh dậy, ông thấy cô bé đang ngồi trên chiếc giường nhỏ của mình, không nói gì cũng không động đậy. Mãi đến khi ông đứng dậy đưa cô đi rửa mặt, Tiểu Nhu mới dậy, tự mình rửa mặt mũi, sau đó ngồi ở phòng khách đợi ông đưa cô đi ăn sáng. Ngày thứ ba, cô bé nhận tiền lẻ ông đưa rồi tự mình đi ra ngoài, mua bữa sáng về nhà rồi ngồi ở bàn ăn đợi ông.
Đối với một đứa trẻ tám tuổi mà nói, Tiểu Nhu có tất cả những kỹ năng sống không cần thiết. Chỉ mấy ngày sau, khi ông lê thân hình kiệt sức của mình về nhà, Thiệu Lương Vỹ phát hiện cô bé đã chuẩn bị xong bữa ăn và đang ngồi chờ ông.
Ba món mặn, cơm và một bát canh trứng.
Một đứa trẻ tám tuổi lại có thể tự nấu ăn.
Lúc đó ông không nghĩ nhiều về chuyện đó, dù sao cũng là một đứa trẻ từng bị bỏ rơi, chắc chắn phải nhạy bén và có năng lực hơn một đứa trẻ được chiều chuộng nhiều, nhưng dần dần ông phát hiện ra rằng điều đó không chỉ đơn thuần là như vậy.
Đứa trẻ này rất thông minh, nó thông minh đến mức nào? Một buổi chiều nọ, ông về nhà và thấy cô bé đang đọc sách.
Hồi cấp ba Thiệu Lương Vỹ mê mẩn các loại tiểu thuyết, sách trinh thám. Sau khi vào đại học, ông mua rất nhiều sách kiến thức về luật và tâm lý học, nhưng thực ra ông không đọc được nhiều, ngoại trừ những cuốn tiểu thuyết phía ngoài thì nhiều cuốn sách khác ở nhà đã bám đầy bụi, nhưng ông không nỡ vứt chúng đi mà chỉ cất hết trên giá sách. Hôm đó vừa về đến nhà, Thiệu Lương Vỹ thấy đứa trẻ đang bước lên một chiếc ghế đẩu nhỏ rồi đặt một cuốn sách dày trở lại trên giá sách.
Thực chất Thiệu Lương Vỹ vẫn đang tìm cách thu xếp cho đứa trẻ này, nhưng ông không thể tìm trường học cho cô bé trước khi tìm người được nhận nuôi. Tuy nhiên cũng không thể trì hoãn quá lâu, một người đàn ông độc thân như ông lại ở với một bé gái xinh đẹp không rõ lai lịch, cũng không có giấy chứng nhận nhận con nuôi sẽ không tránh khỏi việc bị người khác nói ra nói vào. Bản thân ông thì không sao nhưng ông chỉ lo ảnh hưởng đến lòng tự trọng của đứa trẻ nên dạo gần đây, ông vẫn đang suy nghĩ mình phải làm gì.
Thiệu Lương Vỹ liếc mắt một cái, vui vẻ nói: “Trời đất ơi, tâm lý học tội phạm. Cô nhóc này, con biết được mấy chữ rồi hả, còn chưa biết ghép vần mà đã đọc một cuốn sách uyên thâm như vậy.”
Cô nhóc không chịu được lời trêu ghẹo của ông, đỏ mặt nói: “Con đã biết chữ từ năm sáu tuổi, chữ trong cuốn sách đó, con gần như thuộc hết. Nếu có từ nào không biết, con sẽ tra từ điển ạ.”
Thiệu Lương Vỹ đã đi làm bận rộn cả ngày, tan làm nhìn thấy Tiểu Nhu khiến, tâm trạng trở nên rất tốt, muốn trêu chọc cô bé nên lấy ra một cuốn tiểu thuyết võ hiệp, mở một trang rồi nói: “Nào, đọc cho chú nghe một đoạn xem con biết được bao nhiêu chữ.”
Tiểu Nhu nhận lấy cuốn sách nhìn qua, rồi xem nó một cách nghiêm túc.
Thiệu Lương Vỹ cười thầm, cho rằng đứa nhỏ này giả vờ đọc như thật, đúng lúc ông muốn dỗ dành cô bé, Tiểu Nhu lại gấp sách đưa lại ông, sau đó cất giọng đọc một đoạn trong cuốn tiểu thuyết.
Ước chừng khoảng ba phút đồng hồ.
Thiệu Lương Vỹ càng nghe càng thấy bất thường, vội vàng mở trang ra, chợt phát hiện đứa trẻ này đã ghi nhớ không sót một chữ!
Ông có phần kinh hãi: “Vừa rồi con đã đọc cuốn sách nào? Tâm lý tội phạm?”
“Vâng.”
“Con đã đọc đến trang nào rồi?”
“Con đọc hết rồi.” Cô bĩu môi, “Chú phải đi làm rất lâu, con cũng không có việc gì làm nên đọc hết rồi.”
“Vậy trang này, con có thể thuộc lòng hết không?”
Tiểu Nhu nhìn qua, thậm chí về sau còn không thèm nhìn, cô cứ thế mở miệng và đọc rành mạch rõ ràng.
Nét mặt của Thiệu Lương Vỹ từ lúc đầu nghi ngờ chuyển sang nghiêm túc.
Lúc này, ông rất chắc chắn rằng đứa trẻ này là một thiên tài có khả năng, một khi đã thấy thì sẽ không quên được.
Ông chỉ mới nhìn thấy đứa trẻ như vậy trên TV. Trên thực tế, đứa trẻ có trí nhớ tốt nhất mà Thiệu Lương Vỹ từng gặp chỉ là người có thể đọc thuộc lòng tất cả những bài thơ cổ mà ông đã học trong năm năm tiểu học, như vậy đã được coi là một đứa trẻ thông minh trong số những đứa trẻ bình thường. Song, Tiểu Nhu rõ ràng khác biệt, cô bé chỉ cần đọc nó một lần, chỉ một lần là có thể thuộc lòng tất cả những từ cô vừa đọc.
Để xem trí nhớ của Tiểu Nhu mạnh đến mức nào, Thiệu Lương Vỹ đã ngồi xuống sàn và nhìn cô bé đọc thuộc gần hết cuốn sách.
Trong lòng ông kinh hãi không thể tả được.
Đại khái là thấy vẻ mặt của ông càng ngày càng nghiêm túc, vẻ mặt của cô bé cũng trở nên sợ hãi: “Chú ơi, có phải con đã làm gì sai không ạ?”
Thiệu Lương Vỹ giật mình, nhanh chóng thả lỏng vẻ mặt: “Không, nhóc không làm gì sai cả.”
“Nói cho chú biết, có ai biết về khả năng thuộc lòng của con không?”
Cô bé suy nghĩ một lát rồi gật đầu: “Chỉ có mẹ Lư biết, nhưng mẹ Lư… đã lên thiên đường rồi.”
“Mẹ Lư là?”
“Đó là mẹ Lư ở trại trẻ mồ côi. Mọi người đều gọi mẹ như vậy. Sau này mẹ bị bệnh và lên thiên đàng. Một người gọi là chú Ngô đến chăm sóc bọn con. Nhưng chú Ngô khác với mẹ Lư, chú không cho chúng con ăn no, và thường xuyên đánh chúng con nữa.”
“Cái gì? Hắn ta dám đánh mấy đứa?!” Thiệu Lương Vỹ nghe vậy đã nổi giận, “Làm sao hắn ta dám làm vậy với mấy đứa? Làm ta tức chết. Con có biết hắn ta ở đâu không? Để chú tới xả giận cho mấy đứa.”
Tiểu Nhu lắc đầu: “Hôm đó trên núi mưa rất to, căn nhà trong trại trẻ mồ côi bị sập. Có hai em trai không chạy thoát nên chú ấy đã bỏ đi biệt tăm rồi ạ.”
Thiệu Lương Vỹ thở dài: “Đúng là khổ cho mấy đứa rồi.”
“Còn những người bạn nhỏ khác ở cùng với con thì sao? Ờ mà, ở đấy không phải còn có hai người lớn sao? Họ đâu rồi?”
“Khi có người đến nhận nuôi tụi nhỏ, con đã trốn đi. Con nghĩ để các em tìm được nhà trước, con có năng lực hơn tụi nó, có thể tự chăm sóc bản thân nên các em đã được nhận làm con nuôi. Rồi một ngày nọ, con nghe dì Chu và dì La nói con xinh nhất trong đám trẻ, muốn đưa con lên thành phố tìm một gia đình giàu có để bán con, vì thế con đã bỏ chạy, họ không tìm được con nên bỏ đi rồi.”
Thiệu Lương Vỹ nghe được lời này, trong lòng rất khó chịu, muốn có một trại trẻ mồ côi ở một nơi xa xôi hẻo lánh như vậy cũng không phải dễ dàng, điều kiện có tốt đến đâu cũng không khá hơn bao nhiêu.
Làm cảnh sát hình sự nhiều năm như vậy, ông cũng đã nhìn ra đủ loại bản chất con người, dù bề ngoài một người có bình thường đến đâu thì trong lòng cũng có thể ẩn chứa một mặt tối mà ngay cả chính họ cũng không hề hay biết. Giống như viện dưỡng lão, cũng có người ngược đãi người già, giáo viên cũng có kẻ quấy rối trẻ em, một đôi vợ chồng thường ngày yêu nhau ân ái thế nào, một ngày nào đó một trong số họ cũng có thể sẽ trở thành kẻ sát hại người còn lại.
Đứa trẻ này khi còn nhỏ, khi còn ngây thơ và không mưu mô nhất đã trải qua rất nhiều thăng trầm, Thiệu Lương Vỹ tin chắc mình nhất định phải tìm một mái ấm tốt cho cô bé.
Đầu tiên ông nhờ chuyên gia tiến hành kiểm tra toàn diện cho Tiểu Nhu, kết quả cuối cùng là cơ thể đứa trẻ không có gì bất thường, chỉ số IQ của cô bé cao hơn nhiều so với những đứa trẻ bình thường, hơn nữa trí nhớ khủng khiếp của Tiểu Nhu không chỉ đơn giản là có trí nhớ tốt, mà là hội chứng siêu trí nhớ (hội chứng trí nhớ siêu phàm).
Ban đầu ông còn chưa hiểu năm chữ này có ý nghĩa gì, sau khi nghe chuyên gia giải thích, Thiệu Lương Vỹ nhận ra đây là một hiện tượng y học rất hiếm gặp, nghĩa là não của đứa trẻ có hệ thống ghi nhớ tự động và những người mắc chứng siêu trí nhớ không có khả năng quên. Họ có thể nhớ rõ ràng những điều bản thân đã trải qua, thậm chí cụ thể đến từng chi tiết.
Điều này cũng có nghĩa là từ lúc có trí nhớ, Tiểu Nhu cũng mất đi khả năng quên và sẽ nhớ kỹ tất cả mọi thứ.
Có lẽ một số người sẽ nghĩ đây là một siêu năng lực.
Nhưng Thiệu Lương Vỹ nghe xong lại cảm thấy, đối với một cô bé mà nói, đây có thể không phải là siêu năng lực, mà là một loại gánh nặng biến tướng, bởi vì nó có nghĩa là tương lai nếu cô phải trải qua một vài chuyện không tốt, thậm chí là trải qua những tổn thương nghiêm trọng nào đó thì những ký ức tồi tệ đó sẽ tiếp tục hiện về trong trí não, khi cô nhớ lại từng khoảnh khắc trong tương lai, nó sẽ giống như những gì đã xảy ra một giây trước, và nỗi đau sẽ ngày càng sống động hơn.
“Tiểu Nhu, hứa với chú, sau này con sẽ không tùy tiện nói cho người khác biết về trí nhớ siêu phàm của mình, con hiểu chưa?”
“Vâng, con nhớ rồi.”
Thiệu Lương Vỹ nhìn đôi mắt đẹp ngây thơ của Tiểu Nhu, thầm thở dài: “Cái con bé này, làm sao mới lần đầu gặp đã dám đi theo chú? Con không sợ chú là người xấu sao?”
“Con đã nhìn thấy ánh mắt của những người lớn xấu xa muốn lừa dối con. Chú ơi, chú không phải vậy. Chú khác với họ nên con muốn tin vào điều đó một lần.” Cô bé nở nụ cười xán lạn, “Chú xem con vẫn rất may mắn, con đã gặp được một người tốt rồi nè.”
Thiệu Lương Vỹ mỉm cười, sau đó nghiêm túc nói: “Lần này là may mắn. nhưng lần sau, con không thể tùy tiện đi cùng những người lớn khác mà con không quen biết. Con phải đề cao cảnh giác, biết không?”
“Dạ, con biết rồi.”
“Vậy nếu thật sự gặp phải người xấu, Tiểu Nhu biết phải làm như thế nào chưa?”
“Đánh!” Cô bé kiên định nói: “Nếu đánh không lại thì chạy.”
Thiệu Lương Vỹ ôm trán, xem chừng Tiểu Nhu đã đọc rất nhiều sách, “Quên đánh nhau đi, chạy mới là lẽ phải, về sau nếu thật sự gặp phải người xấu, con nhất định phải trốn đi, nhớ chưa? “
Cô bé có phần do dự, sau đó ngoan ngoãn gật đầu: “Dạ, con nhớ rồi.”
“Ngoan.” Thiệu Lương Vỹ xoa đầu cô bé.
Ông luôn cho rằng đứa trẻ này rất ngoan ngoãn, cô bé quả thực rất nghe lời ông. Trong thời gian hai chú cháu sống chung, ông đã thật sự đã chăm sóc cô bé như con gái mình, cô bé cũng thật sự rất giống con gái, vừa đáng yêu vừa dễ thương. Nhưng điều ông chẳng thể ngờ là chỉ có một câu nói ấy, một ngày nào đó cô thực sự sẽ không nghe lời mình.
Gặp phải kẻ xấu thì phải bỏ chạy.
Một ngày nào đó trong rất nhiều năm về sau, Tiểu Nhu đã không thực hiện những gì hồi nhỏ cô đã hứa với ông. Khi một lần nữa đối mặt với kẻ xấu, cô không bỏ chạy mà can trường đối mặt với chúng, cô đã liều lĩnh dùng chính sức mạnh của mình để chiến đấu chống lại kẻ ác. Chiến đấu đến một ngày, cuối cùng cô cũng gặp được người có thể kề vai sát cánh cùng mình, và có thể bảo vệ cô.
Điều mà Thiệu Lương Vỹ hối hận nhất trong cuộc đời là gửi cô cho người khác nhận nuôi.
Ông đã quan sát và điều tra kỹ lưỡng về cặp vợ chồng đó từ lâu, người chồng là giáo viên đại học, người vợ là giáo viên mẫu giáo, hai người ân ái và có tính cách tốt bụng, chỉ có điều một trong hai người bị vô sinh, họ luôn muốn có một cô con gái xinh xắn, mặc dù lúc đó Tiểu Nhu đã gần chín tuổi nhưng sự thông minh và dễ thương của cô đã khiến đôi vợ chồng quý mến ngay lập tức.
Bởi vì biết sự đặc biệt của đứa trẻ này nên Thiệu Lương Vỹ đã suy nghĩ rất lâu, cuối cùng quyết định cho đôi vợ chồng này nhận Tiểu Nhu làm con nuôi, dù sao cả hai đều thuộc tầng lớp nhà giáo và có tấm lòng nhân hậu, điều này có thể sẽ giúp ích rất nhiều cho Tiểu Nhu trưởng thành về sau.
Ông còn hỏi cô có muốn coi cặp vợ chồng đó như cha mẹ mình không.
Cô bé đã đồng ý không chút do dự.
Lúc đó Thiệu Lương Vỹ cho rằng đứa nhỏ này rất thích hai vợ chồng, rất muốn có một gia đình trọn vẹn, mãi đến khi gia đình họ xảy ra chuyện, ông mới chợt hiểu ra.
Ngày hôm đó khi ông đưa Tiểu Nhu đến nhà vợ chồng họ, trong mắt cô bé hiện lên nét cô đơn.
Hóa ra cô sợ gây phiền toái cho ông, cô biết ông không thể chăm sóc cho mình cả đời, làm cha đơn thân của cô cũng không tiện.
Khi cặp vợ chồng kia xảy ra chuyện, Thiệu Lương Vỹ lập tức từ thành phố khác quay về tìm cô.
Diệp Tiểu Nhu, đúng vậy, cô vẫn nhớ rõ họ thật của mình, ông luôn cảm thấy cô còn nhớ cha mẹ ruột, nhưng cô chưa bao giờ nói ra. Có lẽ đó là bộ phận ký ức cô giấu tận sâu đáy lòng, không thể chạm tới nhất.
Thời điểm Thiệu Lương Vỹ tìm thấy cô trong sân bệnh viện, ông mơ hồ có cảm giác rằng mình lại nhìn thấy đứa trẻ không nơi nương tựa nằm co ro bên lề đường năm nào.
“Tiểu Nhu…”
Vừa nghe được tiếng gọi của ông, cô ngẩng đầu lên, trên khuôn mặt tái nhợt không còn huyết sắc, nhưng đôi mắt lại đỏ hoe.
Khóe miệng cô run lên, như muốn cười với ông, nhưng cuối cùng vẫn không cười nổi, “Chú… con hình như… đã làm sai điều gì đó.”
Thiệu Lương Vỹ thầm đau xót, trong lòng dâng lên một niềm hối hận khôn tả, “Không, Tiểu Nhu, đó không phải lỗi của con. Chuyện xảy ra với bọn họ không liên quan gì đến con.”
“Tại con… Tại vì con mà họ mới cãi nhau. Dì phát bệnh nên mới vô tình lái xe chở bố Cảnh Chi dẫn đến…” Nói đến đây, cô bật khóc, khóc đến mức trái tim tan nát, vừa khóc còn vừa đấm vào ngực, cho dù Thiệu Lương Vỹ có cố gắng hết sức ngăn cản thì cũng không thể ngăn cô ngừng lại hành vi tự làm mình bị thương. Bởi vì cô đã hoàn toàn sụp đổ, cô đổ mọi tội lỗi về cái chết bất ngờ của Văn Cảnh Chi lên người mình.
Lúc này, Thiệu Lương Vỹ mới biết người vợ đã mắc bệnh trầm cảm nặng sau khi phải chịu đựng nỗi lo vì không thể có con, không biết vì lý do gì mà bà ấy đột nhiên trở nên rất thù địch với Tiểu Nhu. Có lẽ là nhìn thấy chồng mình quá yêu con gái nuôi, bà ấy đã nhiều lần có hành vi bạo hành với Diệp Tiểu Nhu. Sau một lần cãi nhau với Văn Cảnh Chi, bà ấy đã bốc đồng đẩy chồng mình đến chỗ chết, đồng thời đẩy mọi lỗi lầm mình đã gây ra cho Diệp Tiểu Nhu.
Sau đó, người phụ nữ này được đưa đến bệnh viện tâm thần để điều trị, Diệp Tiểu Nhu bất chấp sự khuyên răn của ông cũng theo vào bệnh viện đó.
Cô muốn chăm sóc mẹ nuôi, cho dù bà mẹ nuôi này đã coi cô là kẻ thù của mình.
Thiệu Lương Vỹ đã nhiều lần đến bệnh viện muốn đưa cô rời khỏi đó, nhưng cô chỉ bình tĩnh nói với ông: “Chú đừng lo lắng cho cháu. Chú biết cháu cũng bị bệnh mà, cháu ở lại đây với dì ấy là điều hoàn hảo nhất.”
Ông khuyên cũng khuyên rồi, mắng cũng mắng rồi, nhưng sau đó nghe bác sĩ nói Diệp Tiểu Nhu cũng mắc chứng rối loạn căng thẳng hậu chấn thương nặng nên ông không còn cách nào khác ngoài việc thỉnh thoảng đến thăm cô.
Nửa năm sau, tình trạng của người phụ nữ kia được cải thiện, bà ấy bắt đầu chủ động tiếp cận Diệp Tiểu Nhu và gọi cô là con gái.
Mọi người đều cho rằng bà ấy đã khá hơn nên khi chuyện xảy ra, không ai có thể tưởng tượng rằng sự chuyển biến đó của bà ấy đều là ngụy trang.
Khi biết Diệp Tiểu Nhu suýt bị người phụ nữ đó bóp cổ đến chết, Thiệu Lương Vỹ vô cùng tức giận và đau lòng, ông tức giận với chính mình và đau lòng vì đứa trẻ ngốc nghếch Tiểu Nhu.
Đến cửa phòng bệnh, người đàn bà đó vẫn đang đau lòng gào thét: “Mày nên chết đi!! Mày là kẻ giết người, sao không vào tù đi! Đồ giết người, gia đình tao đã bị mày hủy hoại!!!”
Diệp Tiểu Nhu lặng lẽ đứng đó, mặc cho bà ta gào thét.
Thiệu Lương Vỹ nhìn thấy cổ và cánh tay của cô đầy những vết bầm tím do bị đánh.
Lúc đó ông nhận ra rằng tất cả những ký ức đau thương này sẽ theo mình đến hết cuộc đời.
Cũng trong vài tháng đó, Diệp Tiểu Nhu đã tự đẩy mình vào tù.
Một đứa trẻ thông minh như vậy, người đã giúp ông phân tích vô số vụ án hình sự, thậm chí còn giúp ông vô số lần phân tích kẻ sát nhân thực sự lại tự đẩy mình vào tù chỉ vì một vụ đả thương người đơn giản, thậm chí còn không nói một lời bào chữa nào cho bản thân.
Cô chỉ nói một câu: “Đúng, tôi là một trong những người đã đả thương người khác.”
Những thanh niên thực sự gây thương tích cho người khác rõ ràng có vẻ kinh ngạc, nhưng cũng chỉ ẩn ý nhìn nhau rồi cười hả hê, thậm chí một thiếu niên mười sáu, mười bảy tuổi còn cười khẩy, chế nhạo nói cô là “Đồ ngu”, khiến Thiệu Lương Vỹ tức giận đến suýt lật bàn ngay tại chỗ.
Nhưng Diệp Tiểu Nhu dùng ánh mắt cản ông lại.
“Chú, cháu biết chú thương cháu, nhưng đây là quyết định của cháu.” Cô nói với ông: “Cháu sẽ tự nhốt mình một thời gian. Nhà tù là một nơi hoàn hảo. Chú đừng lo, đợi khi Tô Bối tỉnh lại, cậu ấy nhất định sẽ lật lại bản án cho cháu, đến lúc đó cháu sẽ ra ngoài tạ lỗi với chú.”
Ông đâu cần cô tạ lỗi?
Người cần nói xin lỗi phải là ông.
Thiệu Lương Vỹ đã hối hận vô số lần, nếu lúc đó ông không gửi cô cho cặp vợ chồng đó thì mọi chuyện sau này đã không xảy ra, nhưng tiếc nuối bao nhiêu cũng không thể thay đổi được sự thật đã xảy ra.
Đứa trẻ này thật sự rất khổ, từ nhỏ đến lớn, nó chưa từng được sống một cuộc đời tốt đẹp gì.
Vốn dĩ ông tưởng rằng sau khi đưa cô ra khỏi chân núi, cô có thể sống một cuộc sống yên bình như một cô gái bình thường, nhưng ông chẳng ngờ rằng mình sẽ tự tay đưa cô đến bờ vực thẳm, rồi tận mắt nhìn cô từng bước đi về phía vực thẳm.
Ông chẳng làm được gì cả.
Nhưng giờ ông có thể làm được gì? Trên đời này liệu có ai có thể kéo đứa trẻ tội nghiệp ấy ra khỏi bóng tối không?
Nhiều năm sau, lúc Thiệu Lương Vỹ đang ngồi ngẩn ra dưới ánh mặt trời, đột nhiên nghe thấy Diệp Tiểu Nhu ở bên cạnh nhẹ nhàng nói: “Chú Thiệu, cảm ơn chú.”
“… Cảm ơn ta vì điều gì?”
“Cảm ơn chú đã đưa con đến gặp A Viêm.” Cô cười nói: “Con biết lúc con ra tù, chú đã sắp xếp mọi chuyện cho con. Nếu không, với tính cách của anh ấy, sao có thể đồng ý để con ở lại dễ dàng như vậy. Chú thừa nhận đi, chắc chắn lúc đó hai người đã bàn bạc với nhau rồi phải không?”
“Ta đã làm sai rất nhiều chuyện, nhưng thỉnh thoảng cũng phải gặp may mắn chứ…” Thiệu Lương Vỹ cười khổ lắc đầu, “Nhưng có một điều con đoán là đúng. Năm đó con vào tù vì vụ án kia, cậu ấy đã cảnh báo chú rằng ở đó có một người vô tội. Chú biết đó là con, nhưng chỉ có thể giả vờ làm lơ cậu ấy. Có lẽ là vì sự việc này, nhưng A Viêm là người quá khó đoán. Lúc đó biết được bao nhiêu, chỉ có chính cậu ấy.”
“Hừm, con biết ngay mà.” Cô đặt quả táo đã gọt vào tay ông, cười nói: “Cho nên con đường số phận này, con là người may mắn nhất.”
Nhìn thấy nụ cười rạng rỡ như mặt trời của cô, Thiệu Lương Vi cảm thấy trong lòng vừa chua xót lại ấm áp.
May mắn thay… Thật may là mọi đau khổ đã qua, đứa trẻ này cuối cùng cũng có thể có rất nhiều, rất nhiều kỷ niệm đẹp trong tương lai…
Chia sẻ cảm nghĩ của bạn nhé!
Vui lòng đăng nhập để tham gia bình luận cùng chúng mình 💗