Đã quen sống ở thảo nguyên và rừng núi, A Thiếp không thể vào sống trong những ngôi nhà dân cao tầng. Lúc này, những ngôi sao như những ngọn đèn nhỏ, trăng sáng treo trên bầu trời, Lâu Vọng Đông nằm trên bãi cỏ đã bắt đầu xanh, hai tay kê dưới đầu đang nhìn xuất thần. Từ trong sân có giọng nói già nua vang lên: “Ngắm đủ lâu rồi, rốt cuộc là mặt trăng gì mà khiến cháu chưa chịu về? Mau lấy than để đun nước cho A Thiếp.”
Bờ sông vẫn còn mang chút hơi lạnh thổi làn gió mát, nhưng không còn buốt giá. A Thiếp thấy Lâu Vọng Đông một tay xách một xô than đặt bên bếp lửa rồi dùng kẹp than gắp vào đó vài viên, động tác xem có vẻ tùy ý nhưng vừa đủ để làm lửa cháy bùng lên. Bà nhìn bếp lửa, đột nhiên nói: “Người ta chê chúng ta không giống người thành phố sao?”
Bà cụ di chuyển chậm chạp, nghe cũng chậm chạp, giờ mới nhớ ra Lâu Vọng Đông đã từng nói về một cô gái nhưng không đưa về nhà. Cái kẹp than vốn đã được cất đi, giờ nghe bà nói một câu châm chọc, Lâu Vọng Đông lại ném thêm hai viên vào bếp, bà cụ “hừ” một tiếng: “Nuôi Úc Mộc Liệt tốt thật, người ta có áo bông ấm lòng, còn của tôi là viên than đốt lửa nhỏ.”
Lâu Vọng Đông từ nhỏ đã được bà gọi là Úc Mộc Liệt, khi còn nhỏ vừa được bố mẹ đưa về Ngạch Nhĩ Cổ Nạp, còn tưởng bà cụ nhớ nhầm tên, sau mới biết đó có nghĩa là cháu trai. Anh đặt ấm sắt lên giá bếp, nói: “Bà cũng biết người ta là áo bông nhỏ, người nhà không nhớ sao được?”
A Thiếp bĩu môi: “Cũng không trễ mấy ngày này, sao không đưa con bé về? A Thiếp của Cương Nhân Tỳ nói con bé ấy trông giống như tiên nữ vậy.”
Lâu Vọng Đông khẽ cười nhạt: “Tại bà gọi điện cho cháu, nói cháu chơi với bạn mà không cần A Thiếp nữa, giống như muốn cháu lập tức về nhà ấy.”
“Nhà nào mà không nhớ con?”
“Vậy sao bà lại bảo để cô ấy về nhà muộn vài ngày?” Một câu của Lâu Vọng Đông làm bà cụ tức giận đến mức đặt mạnh một cái cốc lên bàn, khi rắc trà, bà lại thở dài, ấm nước sôi kêu ùng ục, bên ngoài vẫn có tiếng gió, A Thiếp nói: “Cháu giống A Mã của cháu, không nỡ để Ngạch Ni nhớ nhà, nên đã đi theo con bé ấy.”
Lâu Vọng Đông rót nước nóng vào trà, những cành đen khô lập tức bung ra thành mầm xanh, anh cười nhẹ: “Bây giờ bên ngoài đều gọi là bố mẹ, A Mã nghe như vừa là bố vừa là mẹ vậy.”
A Thiếp nhìn có vẻ cổ hủ nhưng lại nói: “Chỉ là cách gọi thôi, các cháu càng quan tâm, càng phong kiến. Bây giờ người ta đều làm cái tự tin văn hóa đó, cháu thấy khẩu hiệu bên ngoài đấy thôi.”
Lâu Vọng Đông mở rộng ngón tay cầm tách trà đưa lên môi, hơi nóng toả ra, anh không vội uống mà cười nhẹ trước câu nói của A Thiếp.
“Có vẻ khẩu hiệu thật sự có tác dụng ạ.”
“Sao lại không?” A Thiếp rót sữa vào ấm trà, nói: “Nước trong núi xanh chính là núi vàng núi bạc, nhà ta không nghèo.”
Chén trà đưa lên môi làm anh bị bỏng một chút, môi anh hé mở, nhìn vào bếp lửa, mặt trăng ở nơi cô ấy cũng giống như ở đây nhỉ?
Trong căn phòng tĩnh lặng, ánh đèn cũng như A Thiếp, dịu dàng và xế chiều, giọng điệu bà bình thản: “Gọi cháu về sớm, không phải A Thiếp không hiểu chuyện mà là đất nhà ta sắp bị trưng thu, A Gia của cháu lúc sinh thời là tù trưởng, sau này chúng ta sẽ xuống núi, ông ấy là người cuối cùng của bộ tộc, giờ ông đã qua đời, A Mã của cháu lại không ở đây, chỉ có thể để cháu thay ông ấy làm việc đó, cháu hiểu không?”
Lâu Vọng Đông nhớ lại buổi chiều thời thơ ấu, anh được đưa về thảo nguyên Ngạc Ôn Khắc, theo ông nội đi qua từng lều Mông Cổ, gõ cửa nhà người lạ, chỉ vào mình, nói sau này anh sẽ ở lại đây và để tóc dài, lúc đó anh còn chưa biết để tóc dài trong tộc Ngạc Ôn Khắc có ý nghĩa gì. Tại sao những người này đều có thể cắt tóc ngắn, còn anh lại phải để giống như con gái?
Lâu Vọng Đông nhìn chăm chú vào bếp lửa, anh nhếch môi: “A Thiếp, cháu hơi hối hận.”
A Thiếp thở dài: “Tiền lần này sẽ cho cháu hết, đó là món nợ A Mã và Ngạch Ni mắc cháu, sau khi A Gia qua đời, họ để cháu ở lại đây trông coi thảo nguyên, giờ nơi này bị trưng thu, cháu không cần phải trông coi nữa, hối hận cũng chỉ đến đây thôi.”
“Cháu hối hận vì đã không đưa cô ấy về.” Lâu Vọng Đông khẽ cười, nói với A Thiếp: “Cô ấy rất giỏi cãi nhau với người khác, hiểu luật, sẽ không để cháu chịu thiệt.”
A Thiếp vừa nghe, ánh lửa từ bếp làm sáng đôi mắt bà. Sau một hồi im lặng, ngay cả bà cũng hơi buồn: “Đời làm sao được vẹn toàn, không phải mọi việc đều như ý muốn.”
“A Thiếp, lúc nào bà nhớ A Gia nhất?”
A Thiếp nhìn Lâu Vọng Đông: “Khi muốn đốt than, vì trước đây đều là ông ấy làm.”
Trí nhớ của người già không lâu dài, chỉ có thể nhớ về hiện tại, bà nghĩ một lát, dường như sợ cháu trai không hiểu lắm nên lại nói thêm: “Giống như việc đòi công bằng luôn là ‘cô ấy’ của cháu làm, giờ không còn ai giúp cháu đòi nữa, lúc này cháu có nhớ cô ấy không?”
Lâu Vọng Đông cầm tay ấm sắt rót trà vào cốc, khi đặt ấm nước trở lại giá sắt, có những giọt nước theo vòi trượt xuống bếp lửa, ngọn lửa lập tức kêu lép bép, như thể nước mắt của người tình rơi vào mà khóc lên.
Mặt băng của sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp dần tan chảy, tỏa ánh lấp lánh dưới cái ấm nhẹ của mùa xuân. Nhưng nhìn lâu, con sông lại như bị nắng làm gầy đi, con đường rộng hơn một chút, người và xe qua lại nhiều hơn, cuối cùng đều tụ tập trước một ngôi nhà trắng.
Căn phòng ồn ào đầy người, tiếng cãi vã có thể làm tốc mái nhà, ai cũng muốn lý lẽ, mọi người đều muốn lợi ích. Viên cán bộ cơ sở trẻ mặc áo sơ mi trắng, quần tây gào to bảo mọi người im lặng, lúc này có người kéo tay áo anh ta, nhìn ra cửa, anh ta háo hức nói: “Đến rồi đến rồi, nói chuyện với anh ta là được, anh ta ổn định được tình hình.”
“Ai vậy?”
Trong căn phòng tối tăm, chỉ có khe cửa hẹp dài xuyên vào ánh sáng mùa xuân của thảo nguyên, mọi người nghe tiếng vó ngựa liền nhìn ra ngoài, thấy một bóng dáng cao ráo còn cao hơn cả khung cửa, khi bước vào phải cúi đầu xuống, khi ngẩng lên, một gương mặt sắc sảo thâm thúy đứng ngược sáng, anh tuấn phi phàm.
Lúc này, bên tai viên cán bộ có tiếng nói: “Người đàn ông để tóc dài kia, trong tộc Ngạc Ôn Khắc, chỉ có tù trưởng mới để tóc dài.”
“Cạch.” Gần biển Hồng Kông, nhiệt độ tháng tư đã làm hoa nở rộ, ánh sáng xanh da trời chiếu rọi mọi thứ sáng bừng. Chu Mạt ngồi trong tiệm cắt tóc, khóe mắt liếc nhìn ra cửa kính, trên lối đi bộ toàn là những bóng người vội vã, họ lướt qua những biển quảng cáo rực rỡ dày đặc, bóng của họ in xuống mặt đất như hóa thành những sợi tóc bay, còn trong nhà, một cây kéo gọn gàng cắt đi vài lọn tóc sau lưng cô.
“Molly, em thật sự muốn làm tóc xoăn à? Không sợ má em giận à?”
Chu Mạt nhìn mái tóc dài thẳng của mình trong gương rồi nói với chị họ: “Cứ nói với má là em tự dùng máy uốn tóc, kiểu tóc một lần ấy.”
Chị họ lật tờ tạp chí trong tay rồi nhướng mày, môi mang theo nụ cười: “Dù sao em cũng phải phỏng vấn cho tạp chí thì trang điểm nghiêm túc, hơn nữa mùa xuân đã đến cũng nên nở hoa đẹp, để quen vài chàng trai chứ.”
Chu Mạt từ từ ngước mi lên, trừng mắt nhìn chị họ, ánh sáng lướt qua đôi mắt cô, cô nói với thợ làm tóc: “Tôi muốn kiểu xoăn sóng lớn, tự nhiên một chút, khoảng bao lâu thì xong? Chúng tôi còn phải đến Happy Valley.”
Chị họ lật tạp chí cười cô: “Trước đây dì muốn đến câu lạc bộ đua ngựa uống trà sáng, em nhất định ngủ nướng, giờ lại hăng hái, là vì đã xem nhiều ngựa ở thảo nguyên, về không có để xem nên nhớ à?”
Ánh mắt Chu Mạt tối đi, mấy sợi tóc rơi xuống đầu mũi, cô nhắm mắt lại, nói: “Em đi tìm một nơi nuôi ngựa.”
Chị họ lúc này mở to mắt quay đầu nhìn cô: “Dựa vào cái thu nhập ít ỏi của em mà đòi nuôi ngựa à? Mơ đi.”
Dù miệng nói vậy, nhưng trước khi trời tối, chị vẫn đưa Chu Mạt đến trường đua ngựa. Hồng Kông có nền tảng đua ngựa hàng đầu thế giới, hôm nay là thứ Tư – ngày đua ngựa, Chu Mạt nhìn thấy trước mắt là những con tuấn mã dáng cao, còn khi đi vào hậu trường, cô thấy đội ngũ y tế hàng đầu đang chăm sóc cho ngựa, đảm bảo trạng thái tốt nhất cho chúng khi thi đấu. Chuồng ngựa cũng được bố trí công phu, một không gian vuông vắn nhỏ nhắn. Khi họ bước vào, trợ lý đang giới thiệu, Chu Mạt nghe thấy thức ăn cho ngựa được vận chuyển bằng đường hàng không từ thảo nguyên phía bắc, nhịp tim trong lòng cô khẽ rung lên.
Chị họ rất hài lòng với môi trường ở đây, nhưng khá lo lắng không biết Chu Mạt có đủ khả năng chi trả không, chị hỏi cô: “Em không phải đã mang một con ngựa từ Mông Cổ về đấy chứ?”
Chu Mạt khẽ gật đầu.
Chị họ: “Ngầu ~”
Khán đài trường đua ngựa buổi tối vô cùng náo nhiệt, chị họ đã gọi món, Chu Mạt cùng chị ngồi ở lan can ngoài trời của nhà hàng, vừa ăn vừa xem. Đường đua cỏ rộng lớn như một sân bay, tiếng súng vừa nổ, rào chắn nâng lên, tất cả ngựa lao nhanh trên thảm cỏ xanh. Lúc đầu Chu Mạt xem rất chăm chú, hết trận này đến trận khác, đến khi trăng lên giữa trời, cô nhận ra chúng vẫn chạy mãi trên đường đua này. Ở Ngạc Ôn Khắc, Thát Thát có thể tự do đi lại giữa đường và vùng sâu thảo nguyên, bất cứ lúc nào cũng có thể dừng lại ăn cỏ tươi nhất, uống nước trong của sông Y Mẫn.
Tâm trạng Chu Mạt tụt xuống, cô nói với chị họ: “Chị, khuya rồi, em muốn về ngủ.”
Ra khỏi trường đua, dọc đường đi qua những tấm biển quảng cáo khổng lồ, trên đó in bóng dáng những con ngựa cùng vinh quang xếp hạng của chúng. Chu Mạt đột nhiên đứng trước một tấm, tấm áp phích đã bị gió thổi nắng phơi, màu sắc đều bong tróc và tối đi, cô đưa tay lau bụi phủ trên hình ngựa đua, nhưng phát hiện dù lau thế nào cũng mờ nhạt, không thể sống động trở lại. Con ngựa đó cứ chạy mãi, như thể bị đè trong bức tranh quảng cáo, đã mốc meo, không thể chạy ra ngoài, bị côn trùng ăn mòn một góc, cũng không thể sống lại được.
Chị họ đứng bên cạnh hỏi: “Con ngựa này đẹp hơn con của em không?”
Chu Mạt nhìn tấm áp phích xuất thần: “Đều đẹp cả, nhưng con của em khác.”
Khi về đến nhà họ Chu đã khuya, có người mở cửa cho Chu Mạt vào gara, đợi xe đỗ xong rồi lên lầu, trăng treo ngay bên ngoài cửa sổ kính bên cạnh cầu thang xoắn ốc. Chu Mạt mơ hồ nhìn thấy mái tóc xoăn của mình trong gương, đưa tay vuốt lại, vẫn không đẹp tự nhiên bằng Lâu Vọng Đông. Cô quay đầu lại, thấy bà Lương đứng khoanh tay ở đầu cầu thang.
Chu Mạt lập tức giật mình rồi nghe thấy má nghiêm khắc hỏi: “Sao lại đi uốn tóc?”
Chu Mạt xách túi bước lên cầu thang, vừa hay nhìn thấy lồng chim treo bên cửa sổ của ông nội, ở Hồng Kông có một con phố Tước, ông rất thích đến đó tìm vui. Lúc này con chim nhỏ đã không nhảy nhót nữa, chỉ lặng lẽ đậu trên cành, không biết đã ngủ hay còn thức.
“Đẹp mà má.” Chu Mạt khẽ nói.
Giọng mẹ vang lên sau lưng, cô từng bước đi về phòng, cuối cùng đóng cửa lại, bà Lương vẫn tức giận: “Làm hỏng hết rồi.”
Chu Mạt hai tay chống bên cửa sổ phòng, bên ngoài là tòa nhà này đến tòa nhà khác, một nơi chật hẹp quá, chỉ nhìn một cái đã thấy hết, ngay cả chủ nhân còn không có tự do, huống chi là con chim nhỏ đó. Không khí ẩm ướt bay vào, như từng cây kim ngọn lúa mạch từ đầu ngọn cỏ sum suê, mùi hương của từng chùm lá xanh thấm đẫm mặt đất, mùa xuân hồi sinh.
Tấm rèm cửa buổi sáng được chủ nhân vén lên, một con ngựa cao lớn phi nước đại trên thảo nguyên rộng lớn, cuối cùng kéo dây cương, dừng lại bên bờ sông. Người đến nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, đi về phía ngôi nhà, vẻ mặt mang theo sự tươi mát của gió, anh nói với chủ nhà: “Cô, tiền đền bù đã có rồi, cháu sẽ giúp cô trả nợ cho Ô Sa, cậu ấy sẽ sớm về thôi ạ.”
Lời Lâu Vọng Đông vừa dứt, nước mắt mẹ Ô Sa lập tức trào ra từ hốc mắt: “Về là tốt rồi, có thể về là tốt rồi…”
Mẹ Ô Sa thích nuôi cừu, bên ngoài nhà có một chuồng cừu, những con cừu trắng xù lông kêu be be, đột nhiên, ánh mắt anh rơi vào chiếc lồng sắt bên hàng rào gỗ.
Khi mẹ Ô Sa mang sữa trà cho Lâu Vọng Đông thì nghe anh hỏi: “Con thỏ đó là sao vậy?”
“Ồ, cô nữ thẩm phán đuổi theo cháu ngày đó đã mua nó, cô ấy không cho cô ăn thịt nó, nói sẽ quay lại lấy.”
Nói đến đây, mẹ Ô Sa dường như nhớ đến chuyện buồn ngày xét xử, nhìn Lâu Vọng Đông: “Xin lỗi nhé, Vọng Đông, Ô Sa nó…”
“Cháu không trách cậu ấy.” Lâu Vọng Đông đi về phía chuồng cừu, nhìn thấy con thỏ trắng co ro trong lồng sắt. Anh tháo lưới rồi bế nó ra ngoài, ôm vào lòng. Con thỏ cọ cọ vào ngực anh, mẹ Ô Sa đi lại gần, thấy dáng người cao lớn của anh cúi đầu xuống, dùng mặt mình sưởi ấm thân thể con thỏ con, vẻ mặt yên bình như vị thần bên bờ sông, cúi mày ban phúc.
Bà mỉm cười rồi thở dài: “Cô biết mà, các cháu đều lớn lên ở thảo nguyên, một nơi bao la như thế, không sinh ra trái tim chật hẹp.”
A Nhĩ Sơn bị đóng băng cũng đã hé xanh từ đất tuyết. Khi Lâu Vọng Đông đến nhà Lưu Khắc, anh ta đang ở ngoài cửa nhảy dây cùng con gái. Tiếng nhỏ nhẹ vang lên, Lưu Khắc thấy anh ôm một con thỏ đến, mắt sáng lên: “Hôm nay ăn thịt thỏ à!”
“Thỏ ngoan thỏ ngoan!” Con gái không nhảy dây nữa mà muốn đến xem thỏ.
Lâu Vọng Đông liếc mắt nhìn Lưu Khắc: “Đến đưa ảnh cho anh, ảnh gia đình do Hoa Nhài chụp.”
Tuyết ở A Nhĩ Sơn đã tan, giờ đây mắt Lưu Khắc lại sáng như tuyết, anh ta gọi vợ cùng đến xem.
Lâu Vọng Đông vào nhà uống trà, trên bàn như thường lệ có thịt khô, còn con thỏ đang ở trên ghế sofa ấm áp với cô bé. Lưu Khắc vui vẻ lấy điện thoại ra nói: “Anh gửi lời cảm ơn đến Hoa Nhài.”
Tin nhắn được gửi đi, hai người đàn ông cố ý hay vô tình đang chờ câu trả lời, Lưu Khắc thấy ngượng vì Hoa Nhài không trả lời anh ta nên lo lắng, cuối cùng vợ anh ta nói: “Có lẽ cô ấy đang bận, mở phiên tòa phải mất nhiều thời gian lắm.”
“Đã về Hồng Kông rồi, cô ấy không thường dùng WeChat.” Câu nói trầm thấp của Lâu Vọng Đông vừa dứt, Lưu Khắc lập tức thở phào nhẹ nhõm, một lúc sau mới phản ứng lại: “Cô ấy về Hồg Kông rồi? Cậu làm sao đây?”
Vừa nói xong, vợ anh ta huých tay Lưu Khắc.
Lâu Vọng Đông vẻ mặt bình thản: “Cô ấy muốn đưa Thát Thát qua đó, đến lúc đó thủ tục qua cửa làm xong, em phải đến Hồng Kông một chuyến.”
Lưu Khắc lại thở phào: “Vậy thì tốt, mà giờ máy bay thuận tiện lắm, ngủ một giấc là đến, ngồi bao lâu vậy?”
Lúc này vợ Lưu Khắc sợ con gái bóp đau thỏ, vội vàng đến bế cô bé thì nghe Lâu Vọng Đông nói: “Một ngày một đêm.”
Vợ chồng họ giật mình: “Ngồi máy bay mà cũng xa vậy sao.”
“Ngồi máy bay! Bay lên trời kìa!” Lời trẻ con của cô bé làm không khí sôi động hẳn lên, mẹ bế cô lắc lư trên không, tiếng cười như chuông bạc vang lên: “Bay cao cao, có thể nhìn thấy mặt trăng rồi! Con có thể nhìn một ngày một đêm, để con đi ngồi đi!”
Lưu Khắc cười: “Một ngày một đêm, con làm sao chịu được?”
Cô bé nói: “Khi có trăng con sẽ nhìn trăng, khi không có trăng con sẽ nghĩ về trăng, nghĩ một chút, mặt trăng thật sẽ hiện ra thôi ~”
Lâu Vọng Đông cúi mày mỉm cười, đưa miếng thịt khô trên bàn vào miệng, anh bỗng nhớ đến khuôn mặt đỏ ửng của cô và hai tiếng “à” kia.
Khi rời khỏi nhà Lưu Khắc, anh gói con thỏ vào áo khoác gió rồi lên ngựa. Khi sắp xuất phát, điện thoại trong túi reo lên, là cuộc gọi của Tích Cừ.
“Này, anh Đông, em đã về trường đua rồi! Sao anh không ở đây? Không phải anh bảo em đến trông coi trường đua sao! Đừng tưởng em rảnh ở Bác Khắc Đồ lắm nhé! Em là người rất bận, vừa đến trường đua đã dính đủ việc rồi.”
Bên đó gió rất to, Lâu Vọng Đông cưỡi ngựa đi ra chân núi, anh đáp: “Tôi đến ngay.”
“Anh là sắp về hay đang cưỡi ngựa vậy! Ở cửa có môi giới xuất cảnh động vật tìm anh, nói về việc kinh doanh ở Hồng Kông đã kết nối trước đó nên bên đó đã hủy rồi.”
Con thỏ trong lòng Lâu Vọng Đông cựa quậy, anh dùng lòng bàn tay xoa xoa tai nó, an ủi nó rồi nói: “Ô Sa sắp về rồi.”
Tích Cừ sững người rồi nói: “Ừ, thảo nguyên của anh ta vốn sắp bị đấu giá, anh cứ phải lấy tiền trả lỗ cho anh ta, may là giờ được đền bù, không thì anh mất trắng.”
Nói rồi, Tích Cừ nghiến răng chửi: “Ô Sa thằng khốn này, khi nào mới về đây?”
Lâu Vọng Đông cúi đầu dùng cằm cọ cọ đầu mềm mại của thỏ, nói trong tiếng gió: “Các cậu đều về rồi.” Chỉ có cô ấy chưa về.
Tích Cừ hít mũi: “Em hỏi anh khi nào về, không phải hỏi thằng khốn đó.”
“Tôi không về nữa, cậu trông coi trường đua đi.”
“Sao lại không về nữa, anh định đi đâu?”
Lâu Vọng Đông hơi thở kề bên tai thỏ nói: “Hồng Kông.”
Tích Cừ “hừ” một tiếng: “Nghiệp vụ này hơi rắc rối, sao cô ta nói mua rồi lại không muốn nữa, vi phạm hợp đồng đấy, phải đền bù!”
Lâu Vọng Đông cúp máy, lúc này mùa xuân rực rỡ, cưỡi ngựa dọc theo bờ sông, rồi lên chuyến tàu hỏa vỏ xanh chở gia súc, có thể trở về thành phố Ngạch Nhĩ Cổ Nạp. Vừa vào cổng, tiếng gió vù vù đã đánh thức A Thiếp đang ngủ gà ngủ gật trong nhà.
Chị hàng xóm đang giúp chăm sóc A Thiếp trong sân gọi: “Vọng Đông về rồi! Còn mang theo một con thỏ trắng nữa!”
Lâu Vọng Đông buộc ngựa, đi thẳng vào phòng, cùng với tiếng loạt soạt, lời nói của A Thiếp đều bị chìm trong bụi bay lên trong không khí. Sau khi Lâu Vọng Đông tắm rửa thay quần áo, anh mới cầm hành lý bước ra khỏi phòng, mắt A Thiếp trong ánh chiều tà mơ hồ, thấy anh đi ngang bếp lửa, bà lẩm bẩm: “Thấy chưa? Bưu kiện của cháu ở góc cửa ấy.”
Lâu Vọng Đông không quan tâm mà chỉ nói: “Cháu mang một con thỏ về làm bạn với bà đây, A Thiếp.”
Khuôn mặt A Thiếp nở nụ cười đầy gió sương, mắt không còn mơ màng nữa mà mở to: “Mua những thứ này làm gì, người trẻ lãng phí tiền, đã có ngựa rồi mà.”
Lâu Vọng Đông đứng bên cửa sổ nhìn Thát Thát trong sân, nó cao lớn đẹp đẽ, có dòng máu tốt nhất của thảo nguyên, anh hỏi A Thiếp: “Ngựa của cháu không đẹp sao, tại sao cô ấy sau khi về lại nói không cần nữa?”
Chị hàng xóm bế thỏ vào, nói: “Vì không đủ khả năng nuôi chứ gì! Mang về phải chịu trách nhiệm lớn lắm, chứng tỏ khách hàng của cậu không còn tâm ý đó nữa.”
Lâu Vọng Đông nhìn trời với ánh mắt trầm trầm, cả bầu trời như muốn đè xuống mặt đất.
Lúc này miệng A Thiếp nói lãng phí tiền, nhưng tay đã đón lấy thỏ từ chị hàng xóm, vô cùng ấm áp, bà vui vẻ nói: “Sẽ tranh ăn cà rốt với Thát Thát rồi.”
Con ngựa trong sân như phát ra tiếng “khịt” phản đối.
Đúng lúc Lâu Vọng Đông định đi, chị hàng xóm cười nói: “Sao phải tranh chứ, bây giờ cái gì cũng mua được, đồ Hồng Kông cũng về tới đây rồi.”
Lời vừa dứt, bước chân Lâu Vọng Đông khựng lại, đột nhiên quay đầu nhìn về phía bưu kiện đang nằm im ở góc cửa phòng.
“Soạt~” Lớp màng nhựa trên hộp bị xé mở, yết hầu anh chuyển động. Anh mở hộp giấy ra rồi xé từng lớp túi xốp được bọc cẩn thận, mùi hương hoa nhài cứ từng lớp từng lớp bay đến cánh mũi anh, cuối cùng anh lấy ra một hộp thiếc tinh xảo.
A Thiếp mũi nhạy, nói: “Thơm quá.”
Trong hộp thiếc xếp chặt từng miếng bánh trà hình vuông nhỏ, được gói bằng giấy dầu màu trắng có vẽ hoa nhài. A Thiếp hỏi: “Là gì vậy?”
Lâu Vọng Đông nhìn chữ trên giấy gói, nói: “Trà hoa nhài, lá trà ạ.”
Chị hàng xóm cười nói: “Từ bao giờ Vọng Đông thích uống trà hoa vậy.”
A Thiếp có vẻ háo hức: “Không biết có thật sự có hoa nhài không?”
Anh xé một miếng cho vào ấm trà đang sôi, ngay lập tức, cả nhà đã tỏa hương thơm.
Chị hàng xóm đặt từng chiếc cốc lên bàn, khi Lâu Vọng Đông rót trà nóng vào, A Thiếp nói: “Hoa Nhài là thứ tốt, đẹp, thơm, ngon, điềm lành.”
Lâu Vọng Đông nhướng mày, hỏi bà: “Điềm lành gì ạ?”
Lúc này chị hàng xóm ngồi xuống ghế gỗ, thổi trà cười nói: “Mạt Lệ Mạt Lệ, khuyên quân mạc ly.” (Hoa Nhài Hoa Nhài, khuyên chàng đừng đi.)
Lâu Vọng Đông úp lòng bàn tay lên tờ giấy trà có vẽ hoa nhài, xoa đi xoa lại.
Lúc này A Thiếp mới phản ứng lại, nhìn hành lý bên chân anh, hỏi: “Cháu lại định rời nhà đi đâu?”
Lâu Vọng Đông cầm chén trà lên, hơi nóng mơn man đôi môi anh, mi mắt anh cụp xuống rồi từ từ trầm giọng nói: “Đi hái đóa hoa nhài của cháu.”
Chia sẻ cảm nghĩ của bạn nhé!
Vui lòng đăng nhập để tham gia bình luận cùng chúng mình 💗