[ Nếu thuở thiếu thời tôi gặp em thì tốt rồi.]
Đám người bức tử Đổng Diệu phủi tay bỏ đi, chỉ có đám Thân tụng quan chẳng màng giá rét đẩy thuyền ra vớt xác Đổng Diệu.
– Nghê Tố, sao nàng lại ra…
Chu Đĩnh cầm áo choàng khá dày định khoác vào cho nàng lại thấy nàng lắc đầu thì dừng lại, rút tay về.
– Nàng quen cậu ta?
– Phải, tôi quen chứ.
Nghê Tố mấp máy bờ môi tái nhợt, đi vòng qua người Chu Đĩnh, vừa ôm mấy cành liễu vừa mới bẻ xuống vừa mang theo làn sương mỏng trong tay áo đi lên trước.
Chu Đĩnh dõi theo bóng lưng của nàng. Một Thân tụng quan chạy tới cạnh y, nói:
– Đại nhân, trời lạnh ghê quá, các anh em không chịu được…
– Đều là sống nhăn răng ra đấy, có gì không chịu được?
Chu Đĩnh bỗng quay lại nhìn hắn chằm chằm.
Thân tụng quan sợ tới câm miệng.
Chu Đĩnh cởi đao đang đeo bên hông xuống nhét vào tay hắn, nói:
– Các cậu cũng biết nước hồ lạnh đấy… người chết ở dưới đó không lạnh chắc?
– Để ta tự xuống vớt.
Nghê Tố đã đi về trên con đường từ hồ Vĩnh Yên đến phố Nam Hoè rất nhiều lần. Hôm nay nàng đi về rất nhanh, còn suýt trượt chân vấp ngã vì giẫm phải vũng nước đọng đã đóng băng của mấy chỗ gạch nứt vỡ.
Mùa đông năm nay quá khắc nghiệt. Ngoại trừ những lúc không ngủ được sẽ tranh thủ trời vừa sáng mà đi mua bữa sáng, hầu hết thời gian còn lại Thanh Khung chỉ ru rú trong y quán chứ không ra ngoài.
Chân cẳng của cậu như bị đóng băng, đi đứng rất chậm. Nghe tiếng mở cửa, cậu đi ra khỏi phòng của mình thấy mỗi Nghê Tố đi về.
Mãi tới khi tới gần nàng, trông thấy làn sương quấn bên tay áo nàng thì mới thở phào một hơi, cậu gọi:
– Nghê cô nương.
Nghê Tố ngẩng đầu, hỏi:
– Thanh Khung, phòng em còn than không?
– Dạ còn.
– Nếu hết thì nhớ nói cho chị biết nhé.
Nghê Tố gật đầu, ôm bó liễu đi qua hành lang tới nhà bếp.
Nàng có vẻ rất bình tĩnh. Thanh Khung chầm chậm tới cửa phòng bếp, thấy nàng định nhóm lửa bèn đi vào, nói:
– Để em làm đi ạ. Em chả làm gì lại đâm ra không cử động được ấy.
Nghê Tố nghĩ cậu nhóm lửa thì cũng có thể ngồi cạnh bếp lò sưởi ấm bèn đáp:
– Ừ.
Thanh Khung vừa nhóm lửa, vừa hỏi:
– Cái cậu Đổng Diệu kia… sao rồi ạ?
Lá liễu mùa đông đã ngả sang màu vàng nhạt. Nghe cậu hỏi, tay Nghê Tố thoáng khựng lại, nàng đáp:
– Chết rồi.
Cả gian bếp bỗng nhiên trở nên yên tĩnh.
Ánh lửa trong lò hắt lên gương mặt xanh xao của cậu, hoà tan sương giá trên đó thành những giọt nước nhỏ xuống. Thanh Khung vẫn còn cầm thanh củi khô trên tay.
– Sao người tốt lại không sống thọ vậy chứ…
– Đúng rồi, chị Thái mới ghé qua đấy ạ.
Thanh Khung sực nhớ ra chuyện này.
– Chị Thái á?
Nghê Tố ngẩng đầu, hỏi:
– Chị ấy đến có việc chi hả?
Thanh Khung kể lại:
– Hình như lang quân chị ấy từ quan rồi. Chị ấy nói hai vợ chồng chị ấy tính về nhà ngoại ở một thời gian nên trước khi đi tính tới chào chị mà chị không có nhà đó.
Lần trước Thái Xuân Nhứ tới, Nghê Tố không ở nhà. Lần này cũng không gặp được.
– Chờ chị ấy quay về, chị tới phủ Thái uý thăm chị ấy.
Đun nước nấu lá liễu xong, Nghê Tố bưng một chậu nước nóng vào phòng, vò khăn sạch trong nước, nói:
-Từ Tử Lăng, chàng đi theo em mà cứ lặng thinh không nói chuyện với em là sao?
Trong căn phòng tràn ngập ánh nến, làn sương nhạt dần dần ngưng tụ thành một người.
Nghê Tố quay đầu lại, thấy tóc mai chàng hơi rối, gương mặt tuấn tú đoan chính lại quá nhợt nhạt, vạt áo thân trước trắng tinh đẫm vết máu, áo bào cổ tròn xanh nhạt bên ngoài cũng bị máu đỏ dính bẩn chẳng nhìn rõ màu sắc nữa.
Nghê Tố thả khăn vào trong chậu, bước tới trước mặt chàng, duỗi tay cởi thắt lưng của chàng ra, thấy chàng định giơ tay lên thì nói ngay:
– Chàng chớ cử động.
Từ Hạc Tuyết vừa đưa tay lên lại thả xuống, đứng yên chẳng nhúc nhích.
Nghê Tố cởi áo bào bên ngoài của chàng ra.
– Để em lau mặt cho chàng trước đã, lát lại thêm chậu khác cho chàng lau người.
Đoạn, nàng ngẩng đầu nói:
– Hay để em gội đầu cho chàng luôn nhé?
– A Hỉ, mấy chuyện này tôi tự làm được.
Từ Hạc Tuyết đáp khẽ.
– Nhưng em muốn gội đầu cho chàng.
Nghê Tố nói.
Từ Hạc Tuyết nhìn nàng, bỗng giơ tay vén sợi tóc loà xoà trên má nàng, lại “ừ” một tiếng đáp lại.
Nắng trời bên ngoài rực rỡ hơn đôi chút, ánh kim nhàn nhạt phủ xuống mái hiên hành lang làm mờ đi ánh nến sáng chói trong phòng. Nghê Tố lau mặt cho Từ Hạc Tuyết xong, bảo chàng nằm xuống giường trúc nhỏ hẹp. Nàng ngồi xuống mép giường để cho chàng gối đầu lên đùi của mình.
– Vậy có làm ướt váy áo của nàng không?
Từ Hạc Tuyết nhìn nàng.
– Nghê Tố vừa tháo búi tóc cho chàng, vừa khẽ hé môi nói:
– Ướt thì ướt chứ sao, nào phải không có đồ để thay đâu.
Từ Hạc Tuyết gối đầu trên chân nàng, được tay nàng nhẹ nhàng chải vuốt mái tóc cho, lòng chàng bỗng cảm thấy chút bình an.
Nghê Tố múc một gáo nước lá liễu dội ướt tóc chàng, thấy chàng cứ nhìn mình chằm chằm thì duỗi ngón tay ướt át chạm nhẹ vào mặt chàng:
– Chàng nhìn gì đấy?
Từ Hạc Tuyết chẳng đáp.
Tiếng nước chảy róc rách, Nghê Tố vừa gội đầu cho chàng, vừa nói:
– Em nghe nói Hà công tử xuất sĩ với thân phận cử nhân, được tiến cử vào làm quan trong phủ Quang Ninh. Ngày trước anh ấy cùng mấy người khác dám chịu trượng hình ở viện Đăng Văn để kêu oan cho anh trai em. Lúc ấy chàng đã nói với em đừng khổ sở, cũng chớ nản lòng thoái chí, công lý em mong muốn kia cũng có người mong muốn giống như em vậy.
– Chàng nói quan trường lạnh lẽo nhưng máu một vài người vẫn ấm nóng!
Nước lá liễu âm ấm ướt đẫm mái tóc Từ Hạc Tuyết, Nghê Tố thả gáo nước xuống, nói:
– Máu của Đổng Diệu ấm nóng, máu của Hà công tử cùng hết thảy người liên quan tới chuyện này đều ấm nóng cả. Em biết, trên đời này vốn có rất nhiều người ấm áp, chuyện ấm lòng nhưng bây giờ lòng em thấy hơi lạnh lẽo.
– A Hỉ, ta lại không thấy lạnh nữa rồi.
Từ Hạc Tuyết nhìn nàng:
– Em cũng đừng vì tôi mà thấy như vậy. Trên đời này có kẻ đáng giận, cũng có người đáng quý. Như tôi vậy, tuy chịu hàm oan mà chết nhưng lại gặp gỡ em.
– Cả em và thầy đều tin tưởng tôi, làm mọi chuyện vì tôi. Bây giờ lại có thêm những người chịu lật lại án cũ vì tôi. Ở dưới U Đô lạnh lẽo trăm năm, bây giờ tôi lại thấy ấm lòng lắm.
Chàng thoáng dừng lại rồi nói tiếp:
– Nhưng tôi lại không thể trơ mắt nhìn bọn họ vì tôi mà đi vào đường chết được. Đều là người khổ cực dùi mài kinh sử nhiều năm mới được ngày hôm nay, cũng có người vất vả cố gắng mới được chức quan, nếu bọn họ sống lâu hơn một chút thì sẽ có nhiều cơ hội giúp cho càng nhiều người hơn. Bọn họ ở nơi đâu thì công lý ở nơi đấy, cho dù không thể ở chốn miếu đường thì cũng nằm trong lòng người.
Nghê Tố nâng mái tóc dài sũng nước của chàng, dằn nỗi xót xa bỗng dưng trào dâng trong lòng lại, nói:
– Vậy còn chàng? Trong sạch của chàng thì sao? Còn cả quân Tĩnh An…
– Chẳng qua hư danh mà thôi, cũng đã nhơ nhuốc rồi. Người đã chết, cần gì để ý cái nhìn của người đời mà chi? Chỉ mong tâm này của ta trong sáng, chẳng màng lời thiên hạ. Ta chỉ muốn báo thù rửa hận cho ba vạn nam nhi quân Tĩnh An của ta, muốn cho họ ra khỏi bảo tháp bước vào luân hồi, không phải chịu nỗi khổ của oán hận nữa.
Những giọt nước không ngừng chảy dọc theo đuôi tóc Từ Hạc Tuyết nhỏ vào trong chậu nước.
Ánh nắng nhàn nhạt chiếu trên người Từ Hạc Tuyết, người chàng vẫn chưa thay bộ áo trong nhuốm máu kia. Chàng gối đầu trên chân cô gái này, nói:
– A Hỉ, nếu thuở thiếu thời tôi gặp em thì tốt rồi.
Giờ đây, cảm xúc vẫn luôn đè nặng trong lòng cuối cùng không thể kìm nén thêm được nữa.
Chàng khẽ thở hắt ra.
Nếu như Phan Hữu Phương không phản bội, nếu như Phó tướng Tiết Hoài và tướng sĩ quân Tĩnh An vẫn còn sống, nếu như hồi mười chín tuổi chàng vẫn có thể sống bình an.
Chàng vẫn muốn giành lại mười ba châu, đánh cho lũ người Hồ Đan Khâu khiếp sợ không dám ức hiếp nhục nhã dân chúng Đại Tề, cũng muốn lúc ấy gặp gỡ Nghê Tố.
Chàng muốn dẫn nàng đi cưỡi ngựa, cùng nàng đạp thanh thả diều, thậm chí là quay về huyện Tước – quê nhà của nàng.
Từ Hạc Tuyết bỗng giơ tay lên ôm lấy gáy nàng, kéo nàng cúi đầu xuống.
Bàn tay chàng tựa như một nắm tuyết ôm lấy làn da sau cổ nàng, chàng dịu dàng hôn lên môi nàng.
Nắng trời nhàn nhạt, ánh nến lung linh.
Tiếng nước nhỏ tí ta tí tách, nước thấm ướt váy nàng.
Thanh Khung đang đứng quay lưng ở ngoài cửa, chiếc khăn vấn đầu lỏng lẻo bị gió cuốn bay lên trên mái hiên của hành lang. Cái đầu trọc lóc của cậu lộ ra trong gió lạnh nhưng cậu vẫn đứng yên không nhúc nhích…
…
Đêm khuya, tuyết bắt đầu rơi, lại có vẻ mỗi lúc một dày.
Trong thư phòng của phủ họ Tưởng, quản gia già quỳ xuống cái “bịch”, nói:
– Đại nhân, chẳng phải viện Thẩm hình đã có một bản thư nhận tội của Đàm Quảng Văn rồi sao? Đàm Quảng Văn cũng đã chết rồi, ai mà biết thứ trong tay ngài lúc này là thật hay không chứ!
– Tôi đối chiếu nét chữ rồi, đúng là do hắn tự viết.
Tưởng Tiên Minh đứng dậy, bước tới trước mặt ông:
– Thư nhận tội trong tay tôi được viết vào ngày mồng sáu tháng Mười một, còn thư nhận tội kia được viết vào ngày mồng bảy tháng Mười Một. Ngày mồng sáu, Đàm Quảng Văn mới bị áp giải vào kinh. Vì sao ngày mồng sau hắn viết thư nhận tội rằng tự ý dẫn binh chi viện cho phủ Giám Trì, không tận lực tiếp viện cho núi Mục Thần và giết Miêu Thiên Ninh; tới mồng bảy lại thay đổi, không nhắc tới chuyện phủ Giám Trì, càng không nhắc tới chuyện Ngọc Tiết đại tướng quân đã hạ lệnh chia quân thành ba đường để bao vây tướng Mông Thoát người Hồ trên núi Mục Thần mà chỉ nói mỗi chuyện giết Miêu Thiên Ninh vì thù riêng chứ.
– Bản này rõ ràng hơn rất nhiều.
Quản gia già khổ sở khuyên lơn:
– Nhưng mà đại nhân, kẻ đưa nó cho ngài lúc này rõ rành rành là bụng dạ khó lường! Hôm nay Đổng Diệu tự sát trên hồ Vĩnh Yên. Hơn sáu mươi người dính líu tới chuyện này đang bị thẩm vấn trong Dần Dạ Ty, trong số đó còn có người là viên chức đấy… Ngay cả Hàn lâm học sĩ Hạ Đồng, Hạ đại nhân, cũng bị Ngự sử đài tra hỏi vì bị phát hiện là tàng trữ thơ văn của Từ Hạc Tuyết trong nhà đó. Bây ngờ ai nấy đều lo lắng bất an, sợ mình bị liên lụy vào đó thôi!
– Lũ tiểu nhân gian nịnh ấy làm vậy chẳng phải vì cục diện như bây giờ đấy sao?
Tưởng Tiên Minh kéo ông đứng lên, nói tiếp:
– Bọn chúng càng làm như thế chứng tỏ chuyện này càng có uẩn khúc. Bọn chúng ra oai với mấy người bình thường như Đổng Diệu hòng cảnh cáo họ chớ có khinh suất manh động. Chưa kể bọn chúng sẽ ra sức chứng minh với Quan gia rằng bản án phản quốc mười sáu năm trước này tôi không xử sai, Quan gia cũng không xử sai. Bọn chúng muốn mượn tay của Quan gia để đàn áp, uy hiếp mấy người kia để họ không dám nhắc tới bản án này nữa.
– Bọn chúng đang nói cho mấy người kia biết rằng, dù sau này Quan gia biết đây là án oan cũng sẽ không cho phép lật lại vụ án.
– Bọn chúng nghĩ làm vậy sẽ khiến mọi người khiếp sợ.
Tưởng Tiên Minh đưa bức thư cho quản gia già, nói:
– Đây là thư cắt đứt quan hệ cha con. Ông giữ cho kỹ, về quê thì giúp tôi chuyển lời cho ông cụ rằng…
Tưởng Tiên Minh hơi nghẹn ngào, nói tiếp:
– Mười sáu năm trước Tịnh Niên đã làm sai, bây giờ không thể tiếp tục sai nữa. Đã không thể phụng dưỡng người, lại… cắt đứt quan hệ cha con với người, Tịnh Niên là thằng con bất hiếu, nhưng cũng chỉ có thể bất hiếu mà thôi.
Có thư cắt đứt quan hệ cha con này thì ngày sau cha hắn sẽ không bị hắn liên luỵ.
– Đại nhân…
Quản gia lập tức khóc lên.
Tưởng Tiên Minh nói:
– May mà con bé Kiều lấy chồng rồi, phu nhân cũng tạ thế được mấy năm. Hai người họ đều không bị tôi liên luỵ.
Nghe một tiếng mèo kêu, hắn ngoảnh lại thấy một chú mèo mướp đi vào. Hắn bước tới, ngồi xổm xuống bế chú ta lên, đứng trước mặt quản gia cười nói:
– Ban đầu tôi bế nó về vì lũ chuột cứ hay gặm sách trong thư phòng. Nó bắt chuột cừ lắm. Ông cũng bế nó theo đi. Nghe lời tôi, đi ngay trong đêm luôn đi.
Chú mèo mướp nằm trong lòng hắn kêu mãi, Tưởng Tiên Minh rồi vuốt đầu nó như đang vỗ về trấn an.
Quá nửa đêm, tuyết rơi càng lúc càng dày.
Tưởng Tiên Minh ngồi một mình trong thư phòng, dưới ánh sáng của hai ngọn nến, hắn cứ đọc đi đọc lại thư nhận tội trên bàn.
Năm ấy, gió cát Ung Châu mạnh lắm.
Hắn vừa mới tới nhậm chức. Dân chúng thành Ung Châu vây kín quan nha. Trong lúc triều đình bàn bạc để định tội, dân chúng liên tục tới trước cửa quan nha xin kết án cực hình cho kẻ đầu sỏ khiến thành Ung Châu bị đánh lén, khiến hơn một nửa người dân trong thành bị chết.
Vừa mới bị người Hồ đánh giết dã man, dân chúng Ung Châu oán hận tận trời khó lòng tiêu tan.
Sau khi ý chỉ xử tử Từ Hạc Tuyết được đưa tới Ung Châu, hắn thuận theo lòng dân mà quyết định xử lăng trì.
Hôm ấy, nắng trời rực rỡ, còn Tướng quân trẻ tuổi mặc áo bào đỏ son, khoác giáp bạc dính đầy vết máu khô, quấn mảnh vải trên mắt chẳng trông thấy được gì.
Mảnh vải che mắt ướt đẫm máu tươi càng làm nổi bật gương mặt tái nhợt và đôi môi khô khốc của chàng.
Chàng không nói một lời.
Mãi cho đến khi áo giáp bạc bị cởi ra, lớp áo bào bị kéo xuống thì đôi tay đang buông lỏng của chàng mới siết chặt lại.
Tưởng Tiên Minh cũng như dân chúng thành Ung Châu đều nhìn rõ mỗi một dao của người hành hình.
Giữa tiếng hoan hô của dân chúng Ung Châu, thiếu niên kia vẫn cứ chịu đựng, nhịn tới mức cơ bắp cả người run rẩy mà vẫn không rên một tiếng.
Trên đài hành hình là máu tươi chảy ròng ròng.
Bên dưới là tiếng reo hò vui mừng của dân chúng.
Thứ âm thanh đó như xuyên qua thời gian mười sáu năm mà đâm mạnh vào màng nhĩ Tưởng Tiên Minh. Hắn chán nản ngả người dựa vào lưng ghế, một tay bưng lấy mặt.
Lòng bàn tay ẩm ướt, hắn nghẹn ngào nức nở.
Hắn cứ ngồi vậy cho đến sáng.
Ngọn nến trên án thư đã cháy sạch. Tưởng Tiên Minh thay quan phục, đội mũ cánh chuồn, bảo phu xe chuẩn bị ngựa xe để vào cung.
Hôm nay vua Chính Nguyên với quần thần cử hành lễ tế trời ở điện Thái An. Tưởng Tiên Minh xuống xe ngựa ở cửa Vĩnh Định, rất nhiều quan viên khác cũng đang đi tới điện Thái An.
Bởi vì Tưởng Tiên Minh là Ngự sử trung thừa, ai nấy đều sợ lỡ mồm nói sai một câu sẽ bị hắn tâu cho Quan gia nên bình thường chẳng ai đi cùng với hắn cả.
Hôm nay hắn cũng đi một mình.
– Tưởng Ngự Sử.
Lúc hắn đi gần tới điện Thái An thì có một người bước tới.
Tưởng Tiên Minh ngẩng lên, đáp:
– Phan Tam Ty đấy à.
Phan Hữu Phương vừa đi với hắn, vừa hỏi:
– Trông anh như chẳng ngon giấc thế kia?
Tưởng Tiên Minh mấp máy môi:
– Chẳng giấu bác, tôi thức trắng cả đêm đây.
Nghe thế, Phan Hữu Phương thở dài, nói:
– Gì thì gì chúng ta đều từng ở phía Bắc làm quan cả. Anh nghe tôi khuyên một lời, có tuổi rồi phải giữ gìn sức khỏe hơn.
Nhưng Tưởng Tiên Minh mới nghe nửa câu đầu của hắn thì khựng lại.
Phan Hữu Phương dừng lại, khó hiểu nhìn Tưởng Tiên Minh.
– Sao dừng lại thế?
– Phan Tam Ty, tôi có lời này muốn hỏi bác.
– Chuyện gì?
– Chuyện mười sáu năm trước…
– Dừng!
Phan Hữu Phương tức khắc giơ tay lên, chắp tay thi lễ với Tưởng Tiên Minh:
– Tưởng Ngự sử, anh là người của Quan gia, giữa lúc thế này anh đừng hỏi ta chuyện đó…
Tưởng Tiên Minh chẳng đáp, cắm đầu đi thẳng.
Phan Hữu Phương thẳng lưng, lẳng lặng nhìn chằm chằm bóng lưng của Tưởng Tiên Minh.
Mạnh Vân Hiến đi cùng với Bùi Tri Viễn, ai nấy đều có vẻ trầm mặc. Đầu tiên là Đổng Diệu tự sát, sau đó là Hạ Đồng bị đưa vào Ngự sử đài thẩm tra. Hai chuyện này như tảng đá lớn đè nặng trong lòng họ.
Thấy hai người, Tưởng Tiên Minh bèn bước nhanh tới.
– Mạnh Tướng công.
Mạnh Vân Hiến ngoảnh lại, vẻ mặt hững hờ.
– Bây giờ có một chuyện chỉ có ngài mới giải đáp được cho tôi.
Đôi tay lạnh cóng của Tưởng Tiên Minh siết chặt ống tay áo.
– Mạnh công…
Bùi Tri Viễn cảnh giác, lập tức lắc đầu với Mạnh Vân Hiến.
– Tôi chỉ muốn hỏi Mạnh Tướng công là tôi sai rồi phải không?
Tưởng Tiên Minh cứ nhìn chằm chặp Mạnh Vân Hiến.
Bùi Tri Viễn toan kéo Mạnh Vân Hiến nhanh chóng đi khỏi đó nhưng lại bị ông hất tay ra.
– Đã vậy ta đoán Tịnh Niên cậu vốn dĩ không muốn làm kẻ hồ đồ. Cậu đã muốn hỏi thì tôi cũng dám nói cho cậu hay.
Mạnh Vân Hiến đón ánh mắt của Tưởng Tiên Minh, chòm râu đen của ông bị gió thổi phất phới.
– Phải.
Một chữ “phải” như đâm vào tim Tưởng Tiên Minh đau điếng.
Bùi Tri Viễn thót tim, lập tức kéo Mạnh Vân Hiến đi, nghiến răng hạ giọng nói:
– Mạnh công! Ngài nói với hắn làm gì! Đương lúc này mà ngài nói với người kia mà chi!
– Mẫn Hành, cậu tránh xa ta một chút đi.
Sống lưng Bùi Tri Viễn cứng đờ, bước chân khựng lại, nghẹn ngào nói:
– Mạnh công, ngài đang khoét tim con đấy!
Sắp tới giờ cử hành lễ tế trời, bá quan vào điện Thái An.
Chẳng lâu sau, vua Chính Nguyên mặc triều phục được đám người Đô Đô tri Lương Thần Phúc của Nhập nội nội thị tỉnh vây quanh đi vào trong điện. Bá quan khom người hô to vạn tuế.
Rước thần, quỳ lạy, dâng hương rồi lại khấu bái, cúng ngọc với lụa, dâng tế phẩm, sau đó còn có sơ hiến lễ (dâng rượu lần đầu) rồi chung hiến lễ (dâng rượu lần cuối), toàn bộ nghi thức tế trời kéo dài chừng ba canh giờ. Vua Chính Nguyên vẫn còn đang bệnh mà ba canh giờ này gió tuyết rất mạnh, gắng gượng đến lúc buổi lễ kết thúc thì bảo Lương Thần Phúc truyền khẩu dụ cho bá quan lui xuống.
Gia Vương luôn đi theo sau vua Chính Nguyên. Lúc đoàn người đang tháp tùng đế vương rời đi thì một vị quan mặc áo đỏ son đột nhiên quỳ xuống chặn đường.
Vua Chính Nguyên nén lại sự khó chịu, nhìn rõ người trước mặt:
– Tưởng Tiên Minh? Ngươi làm gì thế?
– Thần có một thứ muốn trình lên cho Quan gia.
Đoạn, lấy thư nhận tội trong tay áo ra, cầm hai tay dâng lên. Vẻ mặt mọi người ở đó khác nhau, ai nấy đều chăm chú nhìn Tưởng Tiên Minh lớn tiếng nói:
– Thư nhận tội trước đây dùng để định tội Đàm Quảng Văn là giả. Thần có thư nhận tội do Đàm Quảng Văn tự tay viết vào ngày ông ta vào kinh. Kính xin bệ hạ ngự lãm!
Lời này vừa vang lên, sắc mặt triều thần bỗng biến đổi.
Gia Vương tức khắc ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm Ngự sử trung thừa độ chừng bốn mươi đang quỳ dưới đất đằng sau đoàn người. Mạnh Vân Hiến, Bùi Tri Viễn, thậm chí cả Cát Nhượng – người vừa thay thế chức Xu mật phó sứ của Lưu Đình Chi, cả Miêu Thái uý, ai nấy đều nhìn hắn chằm chằm.
Mặt mày vua Chính Nguyên nom chẳng biến đổi bao nhiêu, lão ta nhìn Tưởng Tiên Minh ở trước mặt một hồi rồi duỗi tay ra. Dưới ánh mắt chăm chú của mọi người, tay lão ta còn chưa chạm đến thư nhận tội kia đã lập tức rụt lại.
Tưởng Tiên Minh ngẩng đầu lên. Quân vương trước mặt oai nghiêm trời sinh.
– Sao ngươi chứng minh được thư nhận tội của ngươi mới là thật?
– Theo thư nhận tội trước đó thì chỉ biết Đàm Quảng Văn vì thù riêng sát hại Miêu Thiên Ninh, còn thư nhận tội trong tay thần thì biết rõ ràng nguyên nhân kết quả.
Tưởng Tiên Minh lớn tiếng nói:
– Mười sáu năm trước, Ngọc Tiết đại tướng quân Từ Hạc Tuyết ra lệnh chia quân thành ba đường bao vây Tướng Mông Thoát ở núi Mục Thần. Thế nhưng lúc ấy Ngô Đại cả tin lời lẽ trong phong thư mật của Thân Vương Nhật Lê Đan Khâu rằng người Hồ sẽ theo đường thuỷ tấn công phủ Giám Trì nên đã bắt Tri châu của Ung Châu lúc đó là Dương Minh phải chia một nửa quân thủ thành Ung Châu tới tiếp viện cho phủ Giám Trì. Thống chế Miêu Thiên Ninh không chịu, Dương Minh dùng mưu lấy được lệnh bài rồi điều binh tới phủ Giám Trì. Thế nhưng quân tiếp viện của Ung Châu giữa đường gặp phải quân tiếp viện của bộ lạc Nam Diên rồi bị diệt toàn quân!
– Bọn họ chết như vậy lại bị nói là chết vì thủ thành Ung Châu! Che giấu quân vương mười sáu năm!
– Ngọc Tiết đại tướng quân hạ lệnh cho Cát Nhượng và Đàm Quảng Văn dẫn quân từ Liễn Trì và Long Nham tới chi viện cho núi Mục Thần. Song, Cát đại nhân không nhận được quân lệnh này còn Đàm Quảng Văn bị Ngô Đại ép phải chi viện cho phủ Giám Trì. Lại thêm Đỗ Tông giả truyền quân lệnh, bảo Đại tướng quân lệnh ông ta chi viện cho phủ Giám Trì trước rồi tới Long Nham sau. Thế nhưng…
– Đàm Quảng Văn không thuộc địa hình Long Nham nên bị lạc đường khiến ba vạn quân Tĩnh An… bỏ mạng trên núi Mục Thần!
Điện Thái An bỗng lặng ngắt.
Gió tuyết bên ngoài ùa vào cửa điện, gào thét không ngừng.
Miêu Thái uý thầm siết chặt nắm đấm trong tay áo. Cát Nhượng, người có thể coi là một viên mãnh tướng dưới trướng Ngọc Tiết đại tướng quân năm xưa, nghe mà đứt ruột đứt gan.
Thị độc học sĩ Trịnh Kiên của viện Hàn Lâm bước ra đầu tiên, nói:
– Tưởng Ngự sử! Anh nói vậy là sao! Chỉ dựa vào thư nhận tội chẳng biết từ đâu ra trong tay mà anh dám sàm ngôn trước mặt Quan gia! Chẳng nhẽ báo cáo quân sự của Ung Châu năm ấy là giả? Chả lẽ người triều đình phái tới Ung Châu điều tra lại không biết? Năm ấy ý chỉ phong Từ Hạc Tuyết làm Thân vương của Vương đình Đan Khâu cũng là bằng chứng! Anh lại nói xem, người lúc ấy ở Ung Châu đã xử lăng trì Từ Hạc Tuyết kia bây giờ đang làm gì hử?!
Điện trung thị ngự sử Đinh Tiến kịp thời phụ hoạ:
– Rốt cuộc Tưởng Ngự sử nghe được chuyện gì, thư nhận tội này từ đâu mà có, bây giờ tin đồn nhan nhản khắp nơi, sao Tưởng Ngự sử còn đổ thêm dầu vào lửa? Chẳng nhẽ anh cũng tin lời thằng Đổng Diệu hả?
Tưởng Tiên Minh cười nhạt:
– Các người khỏi cần ở đây xảo ngôn. Đổng Diệu bị Đinh đại nhân bức tử ở hồ Vĩnh Yên. Còn đám hậu sinh trẻ tuổi thì hơn sáu mươi người bị giam trong Dần Dạ Ty! Chẳng phải lũ bây định mượn bọn họ để đe doạ những ai dám lật lại vụ án của Từ Hạc Tuyết sao? Lũ bây cho rằng không còn ai dám nữa sao. Ta phải nói cho người trong thiên hạ biết rằng, nếu muốn có công lý trên đời này thì phải dám!
Mạnh Vân Hiến đứng bên cạnh mà lòng dậy sóng.
Cho dù bị nhiều người che đậy nhưng bây giờ chuyện này vẫn như cũ mà bày ra sờ sờ trước mặt quân vương.
Lúc trước lão ta không biết nhưng hôm nay lại không thể không biết.
Vua Chính Nguyên liếc Tưởng Tiên Minh:
– Tưởng Tiên Minh, là ngươi tự mình xử tử hắn.
– Thần biết.
– Đã biết thì hôm nay ngươi đang làm gì đây?
– Thần đã làm sai, không thể không nhận.
Vua Chính Nguyên lạnh lùng hỏi:
– Ý ngươi là Trẫm đã nhìn lầm ngươi?
Tưởng Tiên Minh ngẩng đầu lên đón ánh mắt của vua Chính Nguyên, mấp máy môi:
– Kể từ khi xử tử Từ Hạc Tuyết vào mười sáu năm trước, thần được Quan gia tín nhiệm, làm Tri châu Ung Châu mới mấy năm đã được thuyên chuyển về kinh làm Ngự sử trung thừa. Thần cảm tạ Quan gia, cả đời vẫn luôn tin rằng mình đã trọn phận bề tôi vì quân vương và dân chúng. Bao năm qua thần vẫn luôn muốn làm người không thẹn với lòng.
– Nhưng ngờ đâu con đường này của thần là đạp trên hài cốt của quân Tĩnh An, là uống máu của Ngọc Tiết tướng quân…
Vành mắt Tưởng Tiên Minh ướt đẫm lệ, nói tiếp:
– Ở Ung Châu, thần… đã lăng trì tướng quân trẻ tuổi nhất, tốt nhất của Đại Tề, Ngọc Tiết tướng quân!
– Tưởng Tiên Minh!
Trịnh Kiên nghiêm giọng quát:
– Bây giờ vụ án này chưa được phúc thẩm mà anh lại kết luận như thế! Rốt cuộc anh có mưu đồ gì?
– Thần!
Tưởng Tiên Minh khom người lạy một cái, nói:
– Khẩn cầu Quan gia phúc thẩm lại vụ án phản quốc của Ngọc Tiết đại tướng quân Từ Hạc Tuyết!
– Tưởng Tiên Minh nguyện trả lại 136 nhát dao mà hồi sinh thời Ngọc Tiết đại tướng quân phải chịu!
------oOo------
Chia sẻ cảm nghĩ của bạn nhé!
Vui lòng đăng nhập để tham gia bình luận cùng chúng mình 💗