[ Tôi tìm Từ Hạc Tuyết.]
Khi đầu Trương Kính rơi xuống đất, trời đổ tuyết lớn khắp thành Vân Kinh.
Ngày hôm sau vua Chính Nguyên tỉnh lại, để Ngô Quý Phi dìu lão ta đứng bên cửa sổ một hồi, nhìn tuyết đọng chưa tan trên ngói xanh, sương trắng giăng trước mắt.
Vua Chính Nguyên lập tức nôn ra một ngụm máu.
– Quan Gia!
Ngô Quý Phi hoảng hốt, lập tức bảo Lương Thần Phúc cho người tới cục Thái Y, lại cùng Cung Nga dìu vua Chính Nguyên trở về giường nằm nghỉ.
– Gọi Trịnh Kiên đến…
Ngực vua Chính Nguyên phập phồng.
Lương Thần Phúc lập tức khom người thưa vâng, lại nói:
– Quan Gia, nô tỳ lập tức sai người đi mời ạ.
Y Chính của cục Thái Y hớt hải chạy tới điện Khánh Hoà, quỳ gối bên long sàng bắt mạch cho vua Chính Nguyên. Đúng lúc này Hàn Lâm Viện Thị Độc Học Sĩ Trịnh Kiên được Lương Thần Phúc dẫn vào.
– Thần Trịnh Kiên, bái kiến Quan Gia.
Trịnh Kiên đứng bên ngoài rèm khom người hành lễ.
– Bản tấu hặc Trương Kính chiếm ngàn mẫu ruộng tốt là do khanh dâng lên.
Vua Chính Nguyên nằm trên giường, đôi mắt lim dim, hoàn toàn không nhìn người đứng đằng sau rèm lụa.
– Trịnh khanh, khanh có nghĩ bản tấu này của mình sẽ đẩy Trương Kính vào chỗ chết hay không?
Trịnh Kiên kinh hãi, cục diện bây giờ quả thật nằm ngoài dự kiến của hắn. Khi dâng bản tấu kia lên, hắn chưa từng nghĩ vì nó mà Trương Kính bị khép tội chết.
– Thần… sợ hãi.
Môi Trịnh Kiên run run.
– Ngươi nên sợ hãi.
Vua Chính Nguyên ở sau rèm lụa cười gằn rồi ho sùng sục một trận.
– Mạnh Vân Hiến vẫn còn tình nghĩa với lão, học trò Hạ Đồng của lão rất kính yêu người thầy này, cả những người trẻ tuổi hôm qua vì lão mà khóc dưới pháp trường kia nữa, bây giờ hẳn bọn họ muốn ăn tươi nuốt sống, phanh thây xẻ xác ngươi lắm.
Cả người Trịnh Kiên run lẩy bẩy, quỳ rạp xuống:
– Quan Gia!
Vua Chính Nguyên không thèm để ý đến hắn mà chỉ giơ tay lên. Ngô Quý Phi và Y Chính hiểy ý lập tức từ sau rèm bước ra, đi ra ngoài điện.
Trong điện chỉ còn Lương Thần Phúc ở bên cạnh vua Chính Nguyên, hầu hạ lão ta uống một viên thuốc giảm đau đầu.
– Trương Kính đã một lòng muốn chết. Bản tấu của ngươi vừa vặn cho lão cơ hội. Lão ngỗ nghịch Trẫm, nạo khoét tim Trẫm, hết thảy chỉ vì một chữ ‘chết’ này. Ngươi cho rằng ngươi đặt bẫy được lão nhưng lại không biết bản thân mình lại trở thành quân cờ của lão rồi. Mà bây giờ ai nấy đều cho rằng Trương Kính chịu hàm oan mà chết. Trận tuyết kia chính là minh chứng tốt nhất.
Giọng nói của vua Chính Nguyên lộ ra mệt mỏi suy bại.
– Nhất định sẽ có người ghi nhớ lời trăng trối của lão trong lòng. Lão muốn dùng cái chết của mình để khiến những người tin lão cũng tin thằng học trò đầu hàng quân địch phản bội quốc gia kia.
– Quan Gia, chứng cứ Từ Hạc Tuyết dẫn theo ba vạn quân Tĩnh An đầu hàng quân địch, phản quốc chất cao như núi. Năm đó ở Ung Châu Tưởng Ngự Sử khép y tội lăng trì được dân chúng Đại Tề khen ngợi không ngớt. Bây giờ chỉ dựa vào dăm ba câu nói trước khi chết của Trương Kính, lại không có chứng cứ xác thực gì, hoàn toàn không đáng tin!
Trịnh Kiên quỳ rạp xuống, dập đầu nói:
– Thần cho rằng vụ án lương thực Đại Châu có điểm đáng ngờ!
Cả điện bỗng lặng ngắt như tờ.
Trịnh Kiên đổ đầy mồ hôi, lòng lo lắng khôn cùng, chỉ cảm thấy lúc này thời gian dài dằng dặc.
Cẩn thận lau sạch miệng cho vua xong, Lương Thần Phúc lùi sang một bên. Lúc này vua Chính Nguyên mới hé mắt nhìn Trịnh Kiên đang quỳ ngoài rèm, vẻ mặt u ám của lão ta mới dịu đi, có vẻ hài lòng nói:
– Vậy thì thẩm vấn lại Tiền Duy Dần đi. Khanh và Thẩm Hình Viện cùng nhau hội thẩm.
Ngữ khí của lão ta bình thản nhưng lại uy nghiêm khó tả. Lưng Trịnh Kiên toát đầy mồ hôi lạnh, cả trán dán chặt dưới mặt đất lạnh lẽo, chòm râu run run:
– Thần… lĩnh chỉ.
Tuyết đọng chưa tan. Trời hôm nay không lạnh như ngày xuân cuối tháng Ba.
Trịnh Kiên ra khỏi điện Khánh Hoà, cả người xụi lơ. Điện Trung Thị Ngự Sử Đinh Tiến đứng bên ngoài xin gặp vua Chính Nguyên mà không được triệu vào bước lại đỡ Trịnh Kiên, hai người cùng nhau bước xuống thềm bạch ngọc.
Đinh Tiến xách tà áo, nói:
– Sao Trịnh đại nhân hốt hoảng thế này?
– Quan Gia muốn tôi cùng với Thẩm Hình Viện hội thẩm lại Tiền Duy Dần.
Sắc mặt Trịnh Kiên tái nhợt.
– Anh nghĩ xem, đây là ý gì?
Nghe vậy, Đinh Tiến nghiêng mặt nhìn sang:
– Sao Trịnh đại nhân phải nghĩ nhiều thế. Quan Gia lệnh ngài thẩm vấn lại Tiền Duy Dần thì ngài cứ thẩm vấn thôi. Chẳng lẽ ngài không biết đường sống của mình ở đâu à?
Trịnh Kiên cũng coi là cận thần của vua. Quan Gia bị Trương Kính dùng cái chết dồn vào bẫy. Bây giờ lão ta tỉnh táo lại thì giận mà không có chỗ xả. Mấy lời nói của lão ta hôm nay là muốn để Trịnh Kiên đứng ra chịu trách nhiệm thay mình.
Cái chết của Trương Kính cộng thêm trận tuyết ngày hôm qua khiến cho cả Vân Kinh xôn xao. Hiện giờ Trịnh Kiên chỉ còn cách duy nhất là làm Tiền Duy Dần đang bị giam trong ngục kia đổi lời khai.
Chỉ cần Tiền Duy Dần thừa nhận mình khai man về vụ án lương thực Đại Châu thì Trịnh Kiên có thể dựa vào đó mà bác bỏ lại bản tấu trước đây của Trương Kính.
– Chỉ mong Tiền Duy Dần là kẻ thức thời.
Trịnh Kiên thở dài.
Cuối tháng Ba năm Chính Nguyên thứ hai mươi, Hàn Lâm Viện Thị Độc Học Sĩ và Thẩm Hình Viện cùng nhau thẩm vấn quan Phong Châu đào nhiệm Tiền Duy Dần suốt mười ngày liền. Song điều khiến đám người Trịnh Kiên bất ngờ là đẫu cho chịu hình phạt nặng đến đâu Tiền Duy Dần cũng chỉ ngậm chặt miệng không chịu đổi lời khai.
– Tiền Duy Dần! Bản quan phụng sắc lệnh của Quan Gia đến thẩm vấn ngươi. Vì sao đến nay ngươi còn không chịu khai báo? Vì sao ngươi lại khai man?
Trong nhà ngục âm u, Trịnh Kiên vỗ bàn giận dữ nhìn tù phạm trung niên cả người gần như không có chỗ nào lành lặn bị trói trên giá gỗ.
Trịnh Kiên cố ý nhắc tới Quan Gia, định bụng mượn Quan Gia để tạo áp lực cho người này.
– Ta nhận tội, nhưng không phải tội khai man mà là tội bán lương thực của kho lương, tội tham ô…
Mặt Tiền Duy Dần bị đầu tóc rối bù che gần hết. Lão thở khò khè, liếc nhìn gương mặt tái xanh của Trịnh Kiên đang ngồi sau bàn dài, bật cười ha hả, bị sặc máu đọng nơi cổ họng ho sùng sục một hồi rồi khạc một cục máu ra.
– Trương Tướng Công đem thân theo đạo cho đến khi chết, cái tâm cái đức ấy thật quang minh lỗi lạc! Ta là kẻ có tội. Bởi vì lòng tham lam mà làm sai mười mấy năm, phí hoài bao năm đèn sách, hổ thẹn phận làm quan phụ mẫu! Nhưng bây giờ ta không muốn làm sai nữa, càng không muốn vì ta mà thanh danh của Trương Tướng Công quá cố bị vấy bẩn!
– Từng câu từng chữ trong thư nhận tội đều là thật! Tiền Duy Dần ta nhận tội này chứ không nhận tội khai man! Cuộc đời này của ta không thể chuộc tội lỗi này được nữa, chỉ còn lấy cái chết tạ tội mà thôi!
Tiền Duy Dần hô lên, đôi mắt đỏ au.
Nếu năm đó lão không bị một ý nghĩ sai làm mờ mắt, nếu năm đó lão có thể nhớ đến thời hàn vi đã đọc “Hoàng Cừ Tứ Cú” không biết bao nhiêu lần…
Vì thiên địa mà lập tâm.
Vì dân sinh mà lập mạng.
Vì vãng thánh mà kế tục học thuyết đã mất.
Vì muôn đời mà khai mở thái bình.[1]
[1]Nguyên văn: “Vị thiên địa lập tâm, vị sinh dân lập mạng, vị vãng thánh kế tuyệt học, vị vạn thế khai thái bình.” (为天地立心, 为生民立命, 为往圣继绝学, 为万世开太平.).
Đây từng là lời tiên hiền mà mỗi lần đọc lên lão sẽ thấy nhiệt huyết sôi trào, mộng tưởng tương lai mình sẽ làm một vị quan tốt. Thế nhưng khi làm quan ở Đại Châu, chạm tới tiền tài, đụng tới tính mạng thì lão lập tức quên hết thảy.
Một bước sai thì vạn bước sai.
Nhưng ít nhất bây giờ lão không dám làm sai nữa, cũng không sợ chết nữa.
Tiền Duy Dần có chết cũng không chịu đổi lời khai. Cuối cùng Trịnh Kiên và Thẩm Hình Viện chỉ đành kết án qua loa. Dựa vào thư nhận tội của Tiền Duy Dần, vua Chính Nguyên hỏi tội hơn mười viên quan liên quan đến vụ án lương thực Đại Châu.
Hơn mười viên quan bị xử tội chết, vua Chính Nguyên cũng không thể nào lảng tránh vụ án lương thực Đại Châu thêm nữa. Đầu tháng Tư, để giải thích cho thần dân trong thiên hạ, vua Chính Nguyên đành phải viết chiếu tự kiểm điểm, lại lệnh cho Đại Châu cải tạo đạo cung để an trí lưu dân bị đói khát.
– Từ sau khi viết chiếu tự kiểm điểm đến giờ, đã ba ngày rồi Quan Gia không lên triều.
Bùi Tri Viễn dìu Mạnh Vân Hiến ra nhà sau Chính Sự Đường. Sau khi Trương Kính qua đời, Mạnh Vân Hiến đau ốm liên miên, hôm nay mới gắng gượng vào cung nghị sự.
– Cậu xem Sùng Chi ghê gớm không. Anh ấy muốn Quan Gia viết chiếu tự kiểm điểm, Quan Gia không muốn cũng không làm gì được.
Mạnh Vân Hiến tìm một cái ghế dựa, vừa ngồi xuống thấy ngay một người đang nằm co ro trên ghế ở bên cạnh thì sợ hết hồn, nhìn kỹ lại mới phát hiện ra đó là Học Sĩ Hạ Đồng của Hàn Lâm Viện.
– Hạ Học Sĩ, sao anh lại ngủ ở đây?
Bùi Tri Viễn đưa tay vỗ bả vai của Hạ Đồng.
– Mạnh Công cũng ở đây này, anh mau dậy đi!
Nghe được hai chữ – Mạnh Công- , Hạ Đồng mở mắt ra, quay đầu lại thấy đúng là Mạnh Vân Hiến đang ngồi bên cạnh. Anh lập tức đứng dậy chào Mạnh Vân Hiến nhưng dáng vẻ của anh chẳng chỉnh tề, quan phục hơi nhăn nhúm vì nằm ngủ trên ghế.
Mạnh Vân Hiến nhìn râu ria bờm xờm của anh, hỏi:
– Râu ria thế này sao không cạo đi?
– Mấy hôm nay ngoài bận lo liệu ma chay cho thầy, lại sửa sang mấy bản thảo thơ văn thầy để lại nên con quên khuấy.
Giọng nói Hạ Đồng khàn đặc như thể đã thức trắng một đêm.
Mạnh Vân Hiến nói:
– Sùng Chi chẳng muốn thấy cậu không biết quý trọng sức khoẻ vậy đâu.
Nghe Mạnh Vân Hiến nhắc tới thầy mình, hốc mắt cay cay, yết hầu khẽ nhúc nhích ngẩng đầu nhìn Mạnh Vân Hiến:
– Mạnh Tướng Công…
– Ngài có biết bản thảo thơ văn thầy bảo con biên soạn là của ai không?
Mạnh Vân Hiến ngẩn ra:
– Không phải của anh ấy hả?
Hạ Đồng lắc đầu:
– Không phải.
– Là của Từ Hạc Tuyết.
Anh từng viết cái tên này trong văn chương của mình, từng dùng câu chữ để chỉ trích, khinh thị cái tên này. Hạ Đồng hoang mang nhìn Mạnh Vân Hiến:
– Mạnh Tướng Công, con từng hận em ấy. Nếu không phải vì em ấy phản quốc thì thầy con sẽ không bị lưu dày, sư mẫu cùng sư huynh con cũng không chết trên đường đi lưu đày… thế nhưng bản thảo thơ văn trước khi lâm chung thầy muốn con biên soạn lại là thơ văn của Từ Hạc Tuyết, thầy con đã âm thầm sắp xếp tất cả từ sớm rồi.
Hạ Đồng nhớ tới pháp trường ngày ấy, nhớ lời người đứng ở nơi đó nghe được, nhớ lời thầy nói trước đoạn đầu đài, cổ họng anh như bị ai bóp nghẹt, giọng khàn khàn:
– Con muốn hỏi Mạnh Tướng Công, lời thầy con nói…
– Cậu hẳn là hiểu rõ thầy mình mới phải. Nếu không có bằng chứng xác thực, anh ấy sẽ không làm như vậy.
Mạnh Vân Hiến dừng lại, lặng thinh một hồi. Ánh sáng ngoài cửa sổ chiếu lên tay ghế, Mạnh Vân Hiến nhìn Hạ Đồng chăm chú:
– Hạ Đồng, đúng là vì thằng bé mà thầy cậu bị lưu đày nhưng trước đó là ta và thầy cậu đã hại thằng bé.
Lời này vừa dứt, Hạ Đồng sửng sốt khôn cùng.
– Năm đó ta cùng Sùng Chi thúc đẩy cải cách chính trị, chẳng những bị vô số quan viên trong triều xem như kẻ địch mà còn bị tông thất hận thấu xương. Ta cùng Sùng Chi đề nghị tăng quyền cho quan võ thì bị đám Ngô Đại phản đối. Bởi vậy mà Từ Hạc Tuyết ở biên quan bị cản trở khắp nơi. Mặc dù bây giờ chưa biết kẻ nào đã hại thằng bé và ba vạn quân Tĩnh An chịu hàm oan nhưng khó mà nói nguyên do trong đó không phải do ta và Sùng Chi.
Nỗi đau xót này gần như nghiền nát cả trái tim của Mạnh Vân Hiến, bởi vì Trương Kính, cũng bởi vì thiếu niên Tướng Quân năm đó một mình đến biên quan xa xôi, một đi không trở lại.
– Hạ Đồng, nghe lời thầy của cậu, cố gắng giữ gìn dấu vết cuối cùng còn lưu lại trên thế gian này của Từ Hạc Tuyết đi…
…
Lần trước Nghê Tố đã chữa khỏi bệnh cho mẹ của Trương tiểu nương tử. Mấy ngày vừa rồi Trương tiểu nương tử kể chuyện này cho hàng xóm của mình nghe. Người phụ nữ hàng xóm kia bèn đến y quán mời Nghê Tố chữa bệnh.
Mấy ngày sau đó Nghê Tố thường đến nhà người phụ nữ kia khám bệnh. Nàng đặt quả cầu ánh sáng nọ trong giỏ mây đựng thuốc đeo bên người. Cho dù ban ngày nàng cũng cầm theo một ngọn đèn, chẳng thèm để ý đến ánh mắt kỳ lạ của người xung quanh.
Con dâu của người phụ nữ kia tiễn nàng ra cửa, cuối cùng không nhịn được mà hỏi:
– Ban ngày ban mặt sao tiểu nương tử lại cầm đèn thế?
– Tôi chờ một người.
Nghê Tố đáp ngắn gọn, mặc kệ vẻ mặt kỳ quái của cô con dâu, một tay xách hòm thuốc, một tay cầm đèn lưu ly, xoay gót đi ra đầu ngõ.
Thỉnh thoảng nàng lại liếc mắt nhìn quả cầu ánh sáng nhạt nhoà trong giỏ thuốc nho nhỏ đeo trên hông. Mỗi ngày nàng đều thắp rất nhiều nến nhưng dẫu thế nào cũng không thể khiến nó sáng thêm được chút nào.
Từ Hạc Tuyết.
Nàng nhớ tới tên của chàng.
Thiếu niên Tướng Quân chịu tội chết ở Ung Châu khi mới mười chín.
Hồi Nghê Tố một hai tuổi đã từng nghe cái tên này. Người ta kể rằng chàng hung ác khát máu, mặt xanh nanh vàng, đầu hàng quân địch, phản bội quốc gia.
Ấn tượng về cái tên này của Nghê Tố chỉ dừng lại ở đó. Thế nhưng từ quyển tạp ký của Mạnh Vân Hiến, nàng lại biết thêm về quá khứ của chàng.
Họ Từ ở Thanh Nhai Châu là thế gia đại tộc. Vào tiền triều, khi thế gia còn mạnh mẽ và đông đảo, họ Từ đã phò vua bình định thiên hạ. Mặc dù trong vòng trăm năm trở lại đây rất nhiều thế gia đại tộc trở nên suy bại nhưng họ Từ có gia phong nghiêm khắc, con cháu họ Từ đều học tập cả văn lẫn võ.
Cha Từ Hiến của Từ Hạc Tuyết là đại gia thư pháp nổi danh nhưng khi lũ người Hồ kéo quân vào Bình Giang thì ông xếp bút nghiên theo việc đao cung, được phong làm Thiên Sách Tướng Quân, tử thủ ở tiền tuyến gần mười năm khiến cho kế hoạch lấy Bình Giang làm bàn đạp để tràn vào phía Bắc của người Hồ bị trì hoãn gần mười năm.
Từ Hiến vì trọng thương mà chết. Sau khi ông qua đời, Bình Giang thất thủ. Từ Hạc Tuyết mới bảy tuổi theo mẹ Chu Thị và anh trai Từ Thanh Vũ vào kinh.
Lúc ấy Tiên Đế ban hôn cho Từ Thanh Vũ và Công chúa Văn Đoan. Từ Hạc Tuyết và mẹ ở lại trong phủ Công chúa.
Lúc bấy giờ, Từ Thanh Vũ vừa là phò mã của Công chúa Văn Đoan, cũng vừa là Đại Lý Tự Thiếu Khanh.
Năm bảy tuổi, Từ Hạc Tuyết bái Trương Kính làm thầy. Năm mười ba tuổi, mẹ chàng qua đời vì bệnh. Năm đó mặc dù binh mã người Hồ đã đến gần Thanh Nhai Châu nhưng vì trước khi lâm chung mẹ vẫn không quên được cha nên Từ Hạc Tuyết một thân một mình ôm tro cốt của mẹ về Thanh Nhai Châu để hợp táng với cha. Sau đó chàng bôn ba bao trận hỗn chiến mới bình yên quay về kinh.
Mười bốn tuổi, chàng đỗ tiến sĩ cập đệ, thanh danh vang dội, vừa lúc thiếu niên vinh quang, tương lai xán lạn thì hay tin Thanh Nhai Châu bị người Hồ công phá.
Anh trai Từ Thanh Vũ của chàng vốn ốm yếu từ hồi còn trong bụng mẹ, cộng thêm nhiều năm lao lực vì lo lắng việc nước, thân thể ngày một hao mòn. Hay tin quê nhà bị giặc giày xéo, chẳng bao lâu thì anh nhắm mắt xuôi tay.
Cùng chị dâu lo liệu tang sự cho anh trai xong, Từ Hạc Tuyết dứt áo ra biên cương, vào làm lính trong quân Hộ Ninh của Miêu Thiên Chiếu chứ không xuất sĩ.
Mười lăm tuổi, ở Đan Nguyên chàng dẫn theo bảy trăm kỵ binh vào sâu trong nội địa người Hồ, đốt lều trại, đánh bại hai ngàn quân Hồ, bắt sống Trạch Dực – con trai của Thân Vương đốc chiến – đang ở hậu phương. Nhờ đó Miêu Thiên Chiếu ở tiền tuyến đánh tan quân tinh nhuệ của người Hồ một cách dễ dàng.
Trận chiến này là trận đánh thành danh của Từ Hạc Tuyết.
Mười sáu tuổi, chàng rời khỏi quân Hộ Ninh, thống lĩnh đội quân Tĩnh An. Ở hồ Ẩm Mã, chàng đánh đến mức người Hồ sợ vỡ mật, tự tay giết Thân Vương Đa Khuyển, đoạt lại ngàn dặm của Yến Quan.
Mười bảy tuổi, chàng đóng quân ở Cư Hàm Quan, thủ thành trì vững như thép, đánh thắng liên tiếp ba trận chiến khiến người Hồ nghe tin thì sợ chết khiếp nào dám tiến lên đánh cướp phương Bắc nữa.
Mười chín tuổi, chàng được phong làm Ngọc Tiết Đại Tướng Quân, thống lĩnh ba quân đoàn của Ung Châu. Một năm này, thanh danh chàng lừng lẫy nhất, cũng là một năm này, cốt như kiếm, tâm tựa trúc của chàng đoạ bùn dơ.
Từ sau khi Ngọc Tiết Tướng Quân bị lăng trì ở thành Ung Châu, dường như chẳng ai còn nhớ chàng cũng từng cầm kiếm giục ngựa, ôm bầu máu nóng bảo vệ Đại Tề sau lưng mình.
Đọc cuộc đời chàng trên từng trang giấy, Nghê Tố tưởng chừng như tận mắt thấy được chàng thuở thiếu thời hăng hái khí phách, cũng thấy được chàng lúc thất bại ê chề, kích gãy cát vùi[2].
[2]Nguyên văn: “chiết kích trầm sa” (折戟沉沙). Chiết kích (折戟): ngọn giáo/kích gãy; trầm sa(沉沙): vùi chìm trong cát. Nghĩa gốc là ngọn giáo/kích gãy bị vùi trong cát. Nghĩa bóng là thất bại lớn.
Chàng làm quan lại không phải là vị quan như kỳ vọng của thầy.
– Nghê Tố, ta thật sự rất muốn nàng tin ta.
Nghê Tố đẩy cửa y quán ra, đột nhiên nhớ đến lời đêm đó chàng nói với mình. Nàng siết chặt chiếc đèn lưu ly trên tay, một hồi lâu sau mới dời gót định bước ra nhà sau.
Thế nhưng lúc này tiếng gõ cửa vang lên, bước chân nàng chững lại.
Nghê Tố quay đầu lại thấy một thanh niên đứng ngoài cửa. Cậu mặc một chiếc áo choàng rách nát, mũ trùm đầu che khuất gần hết gương mặt tái nhợt. Khi cậu ngước mắt lên, đôi đồng tử to hơn người bình thường rất nhiều.
Đôi đồng tử đen kịt và lạnh lùng.
Cậu bước khập khiễng vào trong, kéo mũ trùm đầu xuống làm Nghê Tố nhìn rõ mặt cậu hơn.
Cậu hoàn toàn không có lông mày.
Cậu chậm rãi nói:
– Tôi tìm Từ Hạc Tuyết.
Nghê Tố giật thót, nhìn cậu rồi chợt nhớ tới ngày mưa nọ, trên đường có một thanh niên định cướp bánh bao trong tay nàng. Khi đó Từ Hạc Tuyết đã nói rằng, thanh niên không có lông mày, đôi đồng tử khác thường này là… con của người và ma.
------oOo------
Tặng Đào cho: Mộng Truyện (admin)
Số đào hiện có của bạn: ![]()
Sau khi tặng, số đào còn lại của bạn sẽ là: ![]()
Tên truyện: Chiêu Hồn
Tên chương: Chương 63: Vĩnh Ngộ Nhạc (2)
Giá đào: 0
Giá hạt: 0
Khi Nạp Đào bạn sẽ được tặng thêm một loại tiền tệ là Bông. Loại tiền tệ này chỉ sử dụng vào 1 mục đích duy nhất đó là đề cử truyện.
Chia sẻ cảm nghĩ của bạn nhé!
Vui lòng đăng nhập để tham gia bình luận cùng chúng mình 💗