[ Hôm nay cuối cùng ta cũng dám truy điệu thằng bé rồi!]
Trời âm u, sương dày đặc. Đổng Diệu nằm nhoài trong bùn lầy, ghì chặt túi vải xanh trong ngực, giận dữ trừng mắt nhìn thanh niên trẻ tuổi đang cầm kiếm, đội mũ có rèm che.
– Anh nghĩ nói dăm ba câu thì tôi sẽ tin anh sao?
Người đội mũ có rèm che bình tĩnh hỏi:
– Đổng Diệu, tên kẻ ăn xin đi cùng cậu là gì?
– Ta còn biết hắn là Tiền Duy Dần, kẻ đào nhiệm ở Phong Châu.
Từ Hạc Tuyết đến gần Đổng Diệu, cách rèm che nhìn Đổng Diệu, lờ mờ đoán ra đầu mối từ nét mặt của hắn.
– Xem ra đúng là hắn giấu giếm thân phận với cậu.
– Cậu là một văn nhân lại dám đến Đại Châu điều tra vụ án lương thực mười sáu năm trước, không thể không nói cậu đúng là can đảm y như cha Lục Hằng của cậu.
Nghe chàng nhắc tới cha mình, Đổng Diệu ngước mắt lên.
– Anh là ai? Làm sao anh biết cha tôi?
– Cũng giống như cha cậu, năm xưa ta cũng là người của phủ Công chúa Văn Đoan.
Từ Hạc Tuyết bình thản đáp.
– Đừng tưởng nói vậy tôi sẽ tin anh.
Đổng Diệu quay mặt đi.
– Trưởng Công chúa Văn Đoan đã qua đời mười ba năm rồi, làm sao tôi biết phủ Công chúa còn mấy người chứ?
– Cậu có từng nghĩ người đi theo cậu đến Đại Châu đều chẳng ai sống sót, vì sao chỉ có một mình cậu mới có thể hồi kinh bình an không?
Từ Hạc Tuyết cũng chẳng buồn để ý cậu tin hay không.
– Tiền Duy Dần gian xảo khôn khéo, bằng không hắn cũng không sống tới bây giờ. Còn cậu mới ra đời, hắn không nói thật cũng lừa được cậu đi cùng hắn cả quãng đường dài. Kẻ đứng đằng sau vụ án lương thực so với Tiền Duy Dần còn ghê gớm hơn, cậu cho rằng vì sao tới chuyện của cậu kẻ đó lại trở nên ngu ngốc thế chứ?
Đổng Diệu ngẩn ra, lập tức nhớ hành trình vừa rồi của mình. Tuy ở Đại Châu nhiều lần bị truy sát nhưng ngẫm kỹ thì cậu chẳng hề bị thương tổn gì, thậm chí có thể coi là đường về Kinh khá thuận lợi.
Cậu tưởng là do mình giỏi trốn tránh nhưng người trước mặt lại nói kẻ ăn xin ở Đại Châu nói muốn đi cùng mình lên Kinh cáo ngự trạng kia lại là Tiền Duy Dần – viên quan đào nhiệm ở Phong Châu.
Mặt Đổng Diệu khi đỏ khi trắng, lòng tràn ngập nghi ngờ và kinh hãi, lại nghe người trước mặt nói tiếp:
– Không cần cậu nói ta cũng biết người lệnh cho cậu điều tra vụ án cũ này là ai. Nhưng cậu có nghĩ cậu bình an quay về Kinh là vì có mạng lớn hay vì có kẻ cố ý tha cho cậu, mượn đó để dẫn dụ người đứng sau cậu ra không.
Đổng Diệu lạnh cả sống lưng.
– Anh nói là thứ tôi mang về từ Đại Châu sẽ hại người đó ư?
Nhậm Tuấn đã chết. Nội dung thư nhận tội là thật hay giả cũng đủ để lũ người kia bày bố, thậm chí là đổi trắng thay đen. Cái chứng cứ kia e cũng là giả.
Nếu không lũ người kia tuyệt đối sẽ không để Đổng Diệu mang về Vân Kinh.
– Là Tiền Duy Dần!
Đổng Diệu càng nghĩ lại càng bất an .
– Hắn có tâm tư thâm trầm như thế, vạn nhất hắn phát hiện ra được manh mối gì từ chỗ ta rồi đi tìm…
Cậu không thể thốt ra được ba chữ “Trương Tướng Công”.
– Chứng cứ của cậu là chứng cứ giả của người chết. Nhưng chứng cứ của Tiền Duy Dần là của hắn, thứ ấy là thật.
Tìm được Đổng Diệu lại không thấy Tiền Duy Dần, Từ Hạc Tuyết đoán được ngay suy tính của Tiền Duy Dần. Thế nhưng khi chàng chạy tới phủ họ Trương thì đã muộn. Trương Kính đã vào cung, hơn nữa có thể ông đã dẫn theo cả Tiền Duy Dần.
– Chỉ cần là thật, Quan Gia sẽ không thể làm khó ông ấy, cũng không thể trị ông ấy tội chết.
Tưởng Tiên Minh là bề tôi ngay thẳng, thầy Trương Kính của Từ Hạc Tuyết cũng là bề tôi ngay thẳng. Nhưng Tưởng Tiên Minh là bề tôi của Quan Gia còn Trương Kính là của bề tôi của dân chúng.
Nếu Tưởng Tiên Minh nhắc lại vụ án lương thực, cho dù trong tay cầm bằng chứng thép này của Tiền Duy Dần, chỉ e anh ta cũng chẳng có kết quả tốt. Nhưng Trương Kính lại khác, học trò của ông nhiều vô số, tuy bị lưu đày mười bốn năm nhưng thanh danh không hề suy chuyển. Vua Chính Nguyên mời ông và Mạnh Vân Hiến trở về thúc đẩy cải cách chính trị cũng là muốn dùng ông.
Vua Chính Nguyên có thể giết một bề tôi dễ dàng nhưng lại không thể giết Trương Kính dễ dàng như thế.
– Vì thế anh mới ngăn tôi…
Đổng Diệu đều hiểu rõ tất cả, lẩm bẩm ngẩng đầu lên thấy y phục vốn gọn gàng sạch sẽ của người trước mặt bỗng dưng đã thấm đẫm máu tươi.
– Cậu lập tức đến gặp Mạnh Tướng Công đi.
Từ Hạc Tuyết gần như không thể đứng vững nữa. Máu đỏ thẫm chảy xuôi theo cổ tay nhỏ xuống. Chàng gắng gượng nói thật rõ ràng:
– Xin ông ấy khuyên nhủ Trương Tướng Công, đừng làm mình bị thương, chớ để bị nhiễm lạnh.
…
Cửa điện Trọng Minh che khuất ánh sáng. Lúc này Gia Vương Phi Lý Tích Chân không còn ở trong điện nữa, chỉ còn Gia Vương và thầy Trương Kính của anh.
– Điện Hạ muốn đi à?
Trương Kính ngồi dựa vào lưng ghế, nhìn thấy rương hòm bừa bộn sau màn lụa.
– Dạ.
Từ khi ở Đồng Châu nhận được thư của thầy, Gia Vương luôn mong ngóng được gặp lại thầy của mình, nhưng lúc anh ngồi với thầy lại không biết nên nói gì.
– Điện Hạ hẳn đang suy nghĩ vì sao ta gửi thư cho anh nhưng lại lần lữa mãi không gặp anh.
Trương Kính nâng chén trà lên khẽ thổi hơi nóng.
– Đúng không?
Gia Vương gật đầu:
– Thầy, con trở về để gặp thầy.
– Ta biết.
Trương Kính nhấp một ngụm trà.
– Bởi vì biết nên ta mới kéo đến hôm nay mới tới gặp anh. Thời gian cũng vừa vặn, nếu chậm một ngày nữa hẳn anh đã rời kinh rồi.
– Thầy, vì sao?
Gia Vương không hiểu.
– Đến nay Quan gia vẫn chưa có con, lúc này nhớ tới anh, hẳn anh biết trong lòng Quan Gia đang cân nhắc chuyện gì.
– Bởi vì biết nên Vĩnh Canh mới không muốn.
– Anh không muốn?
Trương Kính đặt chén trà xuống bàn, ngước mắt lên nhìn kỹ người học trò mười mấy năm chưa gặp lại này.
– Vì sao? Anh e ngại Hoàng Thành này vì nó từng giam cầm anh, hay e ngại Quan Gia vì ngài chán ghét anh? Với nỗi sợ hãi này của anh thì dẫu có trao quyền lực cho anh cũng vô dụng.
– Cha ruột của con qua đời khi con còn nhỏ. Quan Gia đánh cờ với triều thần, mà con là quân cờ bị họ khống chế. Con mơ màng lại được phong làm Gia Vương. Ở trong cung này con chưa từng được sống lấy một ngày an lành.
Cổ họng Gia Vương căng cứng.
– Con biết, người đời ai nấy đều ham muốn quyền lực. Nhưng con đã lớn lên ở nơi cao nhất và lạnh lẽo nhất trong thế gian, đã nếm trải mặt thật của nó, nên không muốn bị nó đùa bỡn cũng không muốn dùng nó đùa bỡn người khác.
– Điện Hạ chớ quên, anh là người tông thất, không phải bá tánh bình dân.
Vẻ mặt Trương Kính buồn bã, hờ hững nói:
– Quyền lực cũng là trách nhiệm. Anh nắm lấy quyền cũng cũng phải gánh vác trách nhiệm vốn có mình.
– Thầy…
Gia Vương đang định há miệng nói lại bị Trương Kính cắt ngang:
– Ta muốn hỏi Điện Hạ, nhiều năm như vậy rồi trong lòng anh có hoài nghi người mà năm đó khiến anh dẫu lạy tới vỡ đầu bên ngoài điện Khánh Hoà cũng muốn cầu xin cho nó không?
Cả người Gia Vương cứng đờ, ký ức đã qua ùa về tựa một bàn tay bóp chặt trái tim anh.
Gia Vương im lặng khiến Trương Kính hiểu ra. Ông cũng im lặng một hồi lâu mới nói tiếp:
– Ta nhớ rõ năm nó bảy tuổi thì vào Kinh, được Công chúa Văn Đoan đưa đến bái ta làm thầy. Khi đó Điện Hạ cũng quen biết rồi làm bạn với nó. Sau đó anh được phong làm Gia Vương rồi vào cung sống. Nó biết anh học ở Chiêu Văn Đường thường bị con em tông thất bắt nạt nên mới xin Công chúa Văn Đoan giúp nó vào cung, cùng anh học tập trong Chiêu Văn Đường một năm.
– Sau đó nó dẫn anh đến nhà gặp ta, xin ta nhận anh làm học trò, vì thế Điện Hạ với ta mới có tình cảm thầy trò này.
Gia Vương thở hổn hển, nói:
– Thầy, ngài đừng nói…
– Đã qua thêm một năm nữa, kể từ ngày nó chịu tội chết cũng đã mười sáu năm rồi.
Trương Kính vẫn không dừng lại.
– Điện Hạ, dù một lần anh có từng làm lễ truy điệu cho nó không?
Gia Vương lập tức nhớ đến huyện Tước. Đó là nơi xa nhất anh và Từ Hạc Tuyết hồi mười hai tuổi đi đến. Huyện Tước có một ngôi chùa tên là Đại Chung. Hai người đã từng gõ chuông lớn trong ngôi chùa kia.
Cùng nhau rong chơi, thoải mái tự do.
Năm Từ Hạc Tuyết chết, anh lại đến ngôi chùa Đại Chung kia, mang theo bộ áo lạnh mà vợ thay anh tự tay thêu chữ trên đó.
– Thưa không.
Giọng Gia Vương khô khốc.
– Vì sao? Bởi vì ngay cả anh cũng không biết có nên tin nó hay không. Trong lòng anh muốn tin nó nhưng bằng chứng như núi khiến anh không biết nên làm thế nào cho phải.
Trương Kính tiếp tục hỏi dồn:
– Cho nên anh không dám làm lễ truy điệu, có phải không?
– Chẳng lẽ thầy dám sao?
Gia Vương run rẩy.
– Ta cũng giống anh, cũng sợ nó vào giấc mộng của ta, sợ nó đến gặp ta, nói với ta rằng học sinh xuất sắc nhất của ta đã làm sai.
Bản báo cáo quân sự ở Ung Châu kia quá nghiêm trọng. Lời khai của Tưởng Tiên Minh và quan viên ở Ung Châu sau khi bị thẩm vấn không hề có sơ hở gì. Trương Kính có lòng muốn điều tra nhưng hoàn toàn không tra ra được gì.
Sau đó mười bốn năm lưu đày đã khiến ông khốn đốn, có tâm vô lực.
– Ta không truy điệu nó. Mười mấy năm qua dù một lần nó không vào giấc mộng của ta. Xem ra nó cũng không vào giấc mộng của anh…
Giọng nói của Trương Kính gần như run lên:
– Nhưng Điện Hạ, anh biết không? Nhiều năm như vậy chúng ta lại đều tuyệt tình với một người bị hàm oan.
– Sao cơ?
Gia Vương lập tức đứng bật dậy, nắm chặt tay thầy mình:
– Thầy, ngài nói sao? Ngài biết gì sao?
– Anh vào Kinh hẳn đã nghe đến cái tên Đỗ Tông này.
Trương Kính nhìn anh:
– Trước khi đổi tên thành Đỗ Tông, hắn tên là Đỗ Tam Tài, là một tên quan võ năm đó phụng chỉ vận chuyển lương thực từ Đại Châu tới Ung Châu. Xe lương thực hắn vận chuyển tới Ung Châu hoàn toàn trống không nhưng mười mấy năm qua, chẳng những không một ai nhắc tới việc này mà hắn từ một tên quan võ địa phương lại liên tiếp thăng chức thành quan văn Ngũ Phẩm. Điện Hạ cho rằng hắn làm thế nào mà được?
Ông lấy bức thư trong ngực áo không biết đã bị xem đi xem lại bao nhiêu lần ra đưa cho Gia Vương.
– Bức thư này do người ở Ung Châu đưa tới. Trong đó viết rằng Ngọc Tiết Tướng Quân dẫn binh đánh người Hồ của Đan Khâu nhưng lương thảo mãi không đến. Mặc dù lúc đầu quân Tĩnh An phải nhịn đói đánh trận nhưng Tướng Quân Từ Hạc Tuyết lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, lấy lương thực của quân người Hồ để nuôi quân của mình, như thế khiến cho quân Tĩnh An binh cường mã tráng.
– Từ sau khi cha của Từ Hạc Tuyết tử trận, Thanh Nhai Châu bị rơi vào tay người Hồ. Trong thư này viết rằng tướng người Hồ lấy tính mạng của gia tộc họ Từ ở Thanh Nhai Châu để uy hiếp Từ Hạc Tuyết, nói rằng nếu Từ Hạc Tuyết đầu hàng thì sẽ phong hầu cho nó, lại trao cho nó quyền quản lý Thanh Nhai Châu và mười châu khác. Nhưng nếu Từ Hạc Tuyết không chịu thì sẽ giết cả nhà họ Từ, huỷ lăng mộ họ Từ.
– Từ Hạc Tuyết tương kế tựu kế, tính lấy chuyện này để phản kích, hạ lệnh chia quân thành ba quân đoàn, tự mình dẫn ba vạn quân Tĩnh An đến núi Mục Thần dẫn dụ Mông Thoát. Hai quân đoàn khác chạy đến Hào Trì và Long Nham để viện trợ, vây khốn Mông Thoát, trực tiếp đánh vào Vương Đình Đan Khâu.
– Hai quân đoàn khác… tại sao không đến?
Nhìn từng chữ trên bức thư, Gia Vương chỉ cảm thấy hai mắt đau đớn như bị dao đâm, hốc mắt ướt đẫm:
– Nếu tin này là thật vì sao bọn họ lại không đến?
– Bởi vì hai quân đoàn chưa bao giờ nhận được quân lệnh này.
Quân Tĩnh An gần như bị diệt toàn quân. Rốt cuộc là không có người truyền tin hay người truyền tin bị chặn giết thì không thể biết được. Trương Kính chỉ có thể điều tra tướng quân của hai quân đoàn kia.
Bọn họ đều nói chưa từng nhận được quân lệnh này của Đại Tướng Quân Từ Hạc Tuyết.
Hai quân đoàn không đến tiếp viện khiến cho quân Tĩnh An vốn có thế như chẻ tre lại bị cô lập, bị vây chết ở núi Mục Thần.
– Nếu thật là như thế, nếu thật là như thế…
Gia Vương siết chặt lá thư kia, ngẩng đầu lên, nước mắt lưng tròng:
– Thầy, cậu ấy, cậu ấy…
Anh nghẹn ngào.
– Đỗ Tông là do ta bắt. Hắn cũng đã trăng trối như thế, coi như chứng thực cho phong thư này.
Ngày ấy khi ở tiệm vằn thắn nhận được bức thư từ Ung Châu đưa đến này, Trương Kính lập tức lệnh lão quản gia Lưu Gia Vinh chạy tới phủ họ Đỗ, vừa hay gặp phải Đỗ Tông đang bỏ trốn trong đêm.
Trương Kính đã từng đọc thư từ của biên quan gửi về cho Gia Vương. Trong thư, thiếu niên mười bốn tuổi kia nhắc tới một viên quan võ hiếu học. Trương Kính nhớ rõ tên người này là Đỗ Tam Tài.
Đỗ Tông không nói hết với ông. Bởi vì hắn lo lắng cho an nguy của vợ và cha nuôi của mình nên không muốn tiết lộ ra tên kẻ giúp hắn thoát tội chết, khiến hắn thăng chức lên làm quan ở Kinh Thành.
“Không phải Tưởng Tiên Minh tùng xẻo học trò của ngài, mà là ngài, là Mạnh Tướng Công, là loại người cam nguyện làm con nuôi của người có phẩm cấp còn thua xa mình như ta, là lũ tông thất cho ăn mấy cũng không no! Thậm chí là cả Quan Gia!”
“Dẫu thế nào cũng không phải là người Hồ của Đan Khâu!”
Đêm đó, có lẽ là vì Trương Kính gợi lại chuyện xưa, Đỗ Tông nhớ tới khoảng thời gian từng nhờ Tiểu Tiến Sĩ dạy viết chữ đọc sách trong quân Hộ Ninh. Hắn vừa khóc vừa cười, nói xong mấy lời này thì lập tức đập đầu chết trước mặt Trương Kính.
– Ta biết, trong lòng Điện Hạ rất muốn tin tưởng thằng bé thế nên anh mới không thể nào đối mặt với nó, cũng không dám đứng ở nơi này. Nhưng anh, thật sự muốn đi ư?
Trương Kính nhìn Gia Vương ở trước mặt gần như đang quỳ rạp dưới đất. Chẳng nghe Gia Vương đáp lời, ông cũng không định chờ thêm nữa mà đứng dậy lấy lại phong thư trong tay Gia Vương, dời gót bước ra cửa điện.
– Thầy!
– Ngài định đi đâu thế?
Bóng nắng vụn vỡ chiếu xuyên qua khung cửa đỏ son phủ xuống đầu vai Trương Kính. Gia Vương chỉ thấy mỗi bóng lưng gầy gò của ông, nghe ông nói:
– Vĩnh Canh, hôm nay cuối cùng ta cũng dám truy điệu thằng bé rồi.
Truy điệu là sao?
Truy điệu là sao?
Gia Vương không thốt nên lời, nước mắt đầm đìa trơ mắt nhìn cửa điện mở toang. Bóng dáng người thầy của anh dần dần mờ đi trong ánh mặt trời.
Anh còn thấy đường nét của Chiêu Văn Đường ở xa xa.
…
– Triệu Vĩnh Canh, hôm nay nương nương lại quên cho mày ăn cơm hả? Cái dáng vẻ mày nhìn lom lom vào chùm nho của tao sao mà giống chó con thế kia? Ha ha ha…
– Còn tưởng đâu ở trong cung thì mở mày mở mặt lắm, hoá ra mày lại có cái dáng vẻ này!
Dưới mái hiên của Chiêu Văn Đường, cậu bé Triệu Ích mười một tuổi bị một đám con em tông thất vây quanh. Bọn họ đẩy cậu, lại còn ném nho bắt cậu nhặt lên.
Cậu vừa thẹn vừa giận nhưng chỉ biết nén khóc.
Cổ thụ ở Chiêu Văn Đường rất lớn, bóng râm che phủ cả một vùng. Mấy viên đá nhỏ từ trên vòm cây bay ra bắn trúng đám con em tông thất đang đứng trước mặt Triệu Ích làm bọn nó đứa nào đứa nấy cũng ôm đầu xuýt xoa.
Triệu Ích ngoảnh lại thấy một thiếu niên trạc tuổi với mình đang ngồi trên vòm cây. Cậu ấy mặc áo ngoài kiểu cổ tròn màu xanh nhạt, tay đang nghịch mấy viên đá.
Cậu cứ ngỡ mình hoa mắt.
– Sao cậu lại ở đây?
– Tới đọc sách đấy.
Thiếu niên dựa vào thân cây, hất hàm nói:
– Triệu Vĩnh Canh, hoặc là tôi xuống đánh bọn nó, hoặc là cậu đánh bọn nó còn tôi xuống giúp cậu, chọn một cái đi.
Triệu Ích nhớ rõ mình đã chọn cái sau.
…
Vừa bước vào cửa, Gia Vương Phi Lý Tích Chân thấy lang quân của mình đang ngồi bệt dưới đất. Cô im lặng ngồi xuống trước mặt anh, vòng tay ôm anh vào lòng.
– Tích Chân, nếu năm ấy không bị tập kích giữa chừng có lẽ ta đã đốt bộ áo lạnh kia cho cậu ấy rồi.
Gia Vương ôm chặt vợ mình rồi bật khóc.
– Sau đó dẫu thế nào ta cũng không dám, thế nào cũng không dám…
Thời gian qua đi, bộ áo lạnh kia bị thất lạc đâu mất.
Người đó cũng đã qua đời mười sáu năm rồi.
Ra khỏi điện Trọng Minh, Trương Kính đi về Chính Sự Đường, vừa mới đến cửa cung thì thấy Mạnh Vân Hiến từ đầu bên kia chạy lại. Ông chưa bao giờ thấy dáng vẻ hoảng hốt như thế này của Mạnh Vân Hiến. Trương Kính chống gậy, đứng lại chờ ông ta chạy đến.
Mãi cho đến hôm nay gặp Đổng Diệu, Mạnh Vân Hiến mới phát hiện ra mình đã sơ suất đến nhường nào. Vừa nhìn thấy Trương Kính, Mạnh Vân Hiến bèn lớn tiếng hỏi:
– Trương Sùng Chi! Có phải anh đang bắt Đỗ Tông hay không!
Trương Kính bình tĩnh trả lời:
– Hắn chết rồi.
Mạnh Vân Hiến ghét cay ghét đắng cái dáng vẻ này của Trương Kính, thở hổn hển nói:
– Anh cố ý để cho người khác tưởng rằng anh điều tra chư quan là để thực thi chính sách chỉnh đốn rồi quản lý, thật ra anh đang điều tra vụ án lương thực của Đại Châu mới đúng!
Hiếm khi thấy Mạnh Vân Hiến tức giận đến thế, Trương Kính cũng chẳng trả lời mà chỉ nhét phong thư kia vào trong tay của ông ta, nói:
– Mạnh Trác, lát nữa tôi sẽ vào diện kiến Quan Gia. Anh giúp tôi giữ phong thư này nhé.
Mạnh Vân Hiến mở thư ra xem, sắc mặt tái nhợt, đôi môi run run:
– Sùng Chi, là…
– Là thật. Đỗ Tông đã chính miệng khẳng định. Người đó đã giúp hắn thoát tội chết.
Qua một hồi lâu Mạnh Vân Hiến mới có thể cất lời:
– Anh đã đưa nó cho Gia Vương Điện Hạ xem chưa?
– Tôi đã gửi thư mời ngài ấy về kinh rồi, há lại để cho ngài ấy đi được sao.
– Nhưng Gia Vương…
Mạnh Vân Hiến không thể khiến cho Gia Vương thay đổi suy nghĩ, phong thư này chỉ e làm cho Gia Vương thêm sợ hãi mà thôi.
Trương Kính lắc đầu:
– Đối với ngài ấy, Từ Hạc Tuyết rất đặc biệt, lại có…
Ông dừng lại, giương mắt nhìn Mạnh Vân Hiến:
– Mạnh Trác, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Dẫu cho thân bị lưu đày tôi vẫn còn suy nghĩ. Nếu năm đó tôi không nghe lời anh khuyên lơn, kiên quyết giữ thằng bé ở lại thì phải chăng bây giờ nó vẫn còn đang sống rất tốt như Hạ Đồng, như Gia Vương Điện Hạ vậy. Tôi cũng đã từng nghĩ không biết thằng bé từ thiếu niên sống đến giờ thì sẽ trông ra sao…
– Đỗ Tông nói người tùng xẻo thằng bé không chỉ là Tưởng Tiên Minh mà còn có anh và cả tôi nữa.
Đôi mắt Trương Kính ngấn lệ, nói tiếp:
– Lời này chẳng khác gì con dao đâm vào tim tôi…
Lời này cũng nào khác gì con dao đâm vào tim Mạnh Vân Hiến. Cả người ông ta run rẩy, nhớ đến năm xưa vì chiến sự cấp bách nên ông ta và Trương Kính mới cân nhắc tăng thêm quyền lợi cho các quan võ. Khi ấy Ngô Đại dẫn đầu đám quan viên trong triều chỉ trích hai người là đang mưu lợi cho Ngọc Tiết Tướng Quân Từ Hạc Tuyết.
– Sùng Chi…
Cổ họng như thể bị ai bóp nghẹt, Mạnh Vân Hiến muốn nói thêm gì đó nhưng lại nghe một loạt tiếng bước chân lại gần. Ông ta quay đầu thấy Đô Tri Lương Thần Phúc của Nội Thị Tỉnh đang dẫn theo mấy Nội Thị đi đến đây. Mạnh Vân Hiến vội nhét phong thư vào trong ngực áo, nói nhỏ với Trương Kính:
– Bây giờ Tiền Duy Dần đã ở đây rồi. Anh muốn tâu vụ án lương thực Đại Châu cũng được nhưng Sùng Chi, anh nghe tôi khuyên một lời, chớ nói vụ án lương thực thành trách nhiệm của Quan Gia, đừng chọc giận ngài. Tạm thời hãy khoan nhắc tới chuyện này đã. Nay đã có manh mối rồi, chờ anh trở về, chúng ta cùng nhau thương lượng. Chỉ khi bắt được tên cầm đầu năm xưa rồi mới có thể công khai chuyện này với mọi người.
– Yên tâm, hôm nay tôi sẽ không khinh suất.
Trương Kính gật đầu.
– Diện kiến Quan Gia xong hai chúng ta cùng đến phố Đông cạo râu nhé.
Đoạn, ông đi vòng qua Mạnh Vân Hiến, bước tới chỗ đám người Lương Thần Phúc.
– Trương Tướng Công, Quan Gia truyền ông vào điện Khánh Hoà đấy.
Lương Thần Phúc thở hồng hộc nói.
– Vậy thì đi thôi.
Trương Kính đáp lời.
Biết Trương Kính đi lại không thuận tiện, Lương Thần Phúc bèn tự mình dìu ông đến điện Khánh Hoà. Trương Kính không nhìn thấy Tiền Duy Dần trong điện, nghe Lương Thần Phúc nói Quan Gia cũng đã gặp hắn rồi.
– Thần Trương Kính, bái kiến Quan Gia.
Trương Kính khom người hành lễ.
Vua Chính Nguyên ngồi sau rèm, giọng nói bình thản chẳng biết đang vui hay đang giận.
– Lương Thần Phúc, ban ghế cho Trương khanh.
Lương Thần Phúc đáp lời rồi lập tức sai người mang đến một cái ghế dựa đặt đằng sau Trương Kính.
Chờ Trương Kính ngồi xuống ghế xong vua Chính Nguyên mới lên tiếng hỏi:
– Tiền Duy Dần là do khanh đưa tới hử.
Trương Kính cúi đầu:
– Quan Gia, không trừ sâu mọt, không lợi cho dân.
– Trương khanh nói đúng lắm. Hôm nay ta đọc được một bản tấu nói Trương khanh ở quê nhà Trạch Châu có ngàn mẫu ruộng tốt. Trương khanh chỉ mới về triều chẳng bao lâu, không biết đào đâu ra gia nghiệp lớn thế này mà nuôi dưỡng gia tộc nhỉ?
Ngữ điệu của lão đều đều nhưng nghe vào tai lại nặng nề tựa ngàn cân.
Vẻ mặt Trương Kính vẫn bình tĩnh, dường như ông đã đoán được chuyện gì, khoan thai đứng dậy rồi quỳ xuống:
– Quan Gia, thật sự thần không có gia nghiệp như thế. Nếu người trong tộc thần có tội xin Quan Gia nghiêm trị.
– Trương khanh cần gì phải làm thế?
Vua Chính Nguyên cười nói tiếp:
– Cải cách chính trị này của ta cũng phải dựa vào khanh. Tiền Duy Dần là kẻ đào nhiệm, lời của hắn là thật hay giả cũng chẳng ai biết. Khanh thấy có đúng hay không?
– Từng câu từng lời của Tiền Duy Dần đều là sự thật. Đạo cung ở Đại Châu là dùng tiền bọn họ bán trộm lương thực để xây dựng, mà toà đạo cung kia Quan Gia chưa từng đến lấy một lần.
Vua Chính Nguyên sầm mặt.
– Trương Kính!
Trương Kính vừa nghe được tiếng nghiên mực vỡ ở bên trong vang lên thì thấy một bàn tay vén rèm ra, vua Chính Nguyên bước tới trước mặt ông, giọng nói lạnh tanh:
– Nhà ngươi đang chỉ trích Trẫm?
– Thần không dám. Thần chỉ nói sự thật. Bất luận Quan Gia làm lễ tế trời hay tu sửa đạo cung, đều lấy từ tiền xương máu của dân. Trong hai mươi năm tại vị, Quan Gia ra lệnh tu sửa vô số đạo cung nhưng ngài luôn ở Vân Kinh, thật sự đến những nơi đó được mấy lần? Nếu thật sự thấy chúng, ngài sẽ hiểu được dân chúng khốn khổ thế nào!
– Quan Gia đã thấy người chết đuối, kẻ chết đói chưa? Ngài có hay chăng, vô số con dân của ngài đang chống chọi với đói rét, chỉ biết gặm vỏ cây, ăn đất sỏi để cầm hơi không? Ngài có biết ăn đất sỏi là thế nào không? Ngài có biết bọn họ đang chờ đợi ngài, chờ đợi đấng quân vương cứu mạng bọn họ!
Trương Kính khom người dập đầu nói.
Đám người Lương Thần Phúc đều run cầm cập, đầu gối mềm nhũn quỳ rạp xuống đất, sợ tới mức vã cả mồ hôi lạnh.
Vua Chính Nguyên như thể bị đâm một dao, im lặng lùi ra sau mấy bước. Lương Thần Phúc vội vàng đừng dậy dìu lão ta. Vua Chính Nguyên đẩy hắn ra, chỉ tay vào Trương Kính đang quỳ dưới đất:
– Trẫm thấy ngươi… không coi vua ra gì!
Trương Kính ngẩng đầu, chuỗi ngày tháng bị lưu đày khiến sống lưng còng đi nhưng ông vẫn không chịu oằn mình.
– Rốt cuộc bề trên ban ân mưa móc hay nổi giận lôi đình, làm bề tôi thần đều nhận cả! Nhưng là phận bề tôi há lại nề hà sinh tử, chỉ mong sao quân trung với dân, dẫu có chết chúng thần cũng cam lòng!
------oOo------
Chia sẻ cảm nghĩ của bạn nhé!
Vui lòng đăng nhập để tham gia bình luận cùng chúng mình 💗