[ Thời thái bình cầm bút, khi phong ba rút kiếm.]
– Vì sao ngay trước khi xuất sĩ, chàng lại đột nhiên chuyển sang tòng quân?
Hỏi xong lời này, Nghê Tố bỗng dưng thấy hơi kỳ quái. Nàng sống cách chàng mười sáu năm. Lúc chàng đương độ thiếu niên, danh tiếng lừng lẫy, khí phách hăng hái thì nàng vừa mới ra đời. Khi nàng một hai tuổi, chàng đã đọa bùn dơ, thanh danh nhơ nhuốc. Thế nhưng hôm nay, mặc kệ đôi đường sinh tử, bỏ qua miệng lưỡi thế gian, nàng lại trò chuyện cùng chàng.
– Ta mất cha từ tấm bé. Anh trai bận bịu việc ở Đại Lý Tự. Hầu hết là mẹ với chị dâu dạy dỗ ta. Mẹ ta giỏi văn, khéo hoạ. Hồi cha ta còn tại thế, mẹ ta cũng từng theo quân. Ta chẳng có nhiều kỷ niệm với cha. Ta thường ở với mẹ. Năm ta mười ba tuổi, mẹ ta lâm bệnh nặng, suốt ngày chỉ nằm trên giường. Trước khi lâm chung, bà nắm chặt tay ta, ngoài gọi tên của cha thì chỉ lặp đi lặp lại hai từ ‘đáng tiếc’.
Sau khi thầy Trương Kính của Từ Hạc Tuyết bị xử trảm, trên đường đến Ung Châu, Nghê Tố vẫn luôn tìm kiếm sách liên quan đến chàng.
Nàng biết mẹ chàng họ Chu, tên Cấm, là con nhà vọng tộc, từ nhỏ lớn lên trong giấy mực. Bà nhận chú của Từ Hiến làm thầy, có tài hội họa vô cùng tuyệt diệu. Bà và Từ Hiến rất tôn trọng, yêu thương nhau. Từ lúc thái bình cho tới khi chiến loạn, hai người luôn thấu hiểu lẫn nhau, đồng cam cộng khổ. Lúc bà theo quân thì dốc sức dốc lòng, đi đến nhiều nơi, nhìn hết thảy núi sông rồi vẽ ra bản đồ quân sự chính xác hơn.
– Cũng vì thế mà bà suýt nữa đã chết dưới đao sắt của người Hồ.
– Sau khi mẹ ta quy tiên, ta quyết tâm đưa tro cốt của bà về quê nhà Thanh Nhai Châu để hợp táng với cha ta.
Từ Hạc Tuyết cố gắng hồi tưởng lại chút ký ức ít ỏi còn sót lại của mình. Chàng ngước mắt nhìn nàng, kể tiếp:
– Kể từ năm ta lên bảy, đó là lần đầu tiên ta quay về Thanh Nhai Khâu. Càng đi lên phía Bắc, ta càng thấy được vô số xương trắng phơi ngoài đồng hoang, ngàn dặm chẳng có lấy một tiếng gà gáy. Khi đó ta đã nghĩ tới hai từ ‘đáng tiếc’ của mẹ ta trước khi lâm chung.
– Tuy anh trai của ta ốm yếu nhưng lại rất giỏi pháp luật. Sau khi nhậm chức Thiếu Khanh của Đại Lý Tự, anh ấy dốc lòng tu soạn luật pháp Đại Tề. Năm ta mười bốn tuổi, Thanh Nhai Châu thất thủ, anh ấy buồn lòng, u uất mà ngã bệnh. Vào đêm trước khi ta xuất sĩ, anh ấy nhắm mắt xuôi tay. Ta nhớ rõ đêm ấy mình đã ngồi trước linh cữu của anh ấy rất lâu. Ta tự hỏi, rốt cuộc đôi tay này nên cầm bút hay cầm kiếm.
Từ Hạc Tuyết xoè tay ra. Ngọn nến lay động, ánh nến ấm áp tràn ngập bàn tay chàng:
– Lòng ta không quên được tiếc nuối của mẹ ta. Ta muốn đoạt lại lãnh thổ phía Bắc trong tay người Hồ, đoạt lại Thanh Nhai Châu, kế thừa chí hướng của cha ta. Thời thái bình cầm bút, khi phong ba rút kiếm.
Thời thái bình cầm bút, khi phong ba rút kiếm.
Nghê Tố chợt ngẩn ra, vì lời này mà rung động tận đáy lòng.
Từ hồi lập quốc, Đại Tề đã trọng văn khinh võ. Sĩ tử trong thiên hạ muốn thi đỗ ra làm quan văn nhiều như nước lũ cuồn cuộn. Song, Từ Hạc Tuyết lại khác biệt, chàng ngược dòng mà đi.
Chàng từ bỏ tiền đồ tươi sáng ở Vân Kinh mà tòng quân, làm lính trong quân Hộ Ninh. Chàng làm trái với kỳ vọng của thầy Trương Kính. Năm mười bốn tuổi, chàng một mình anh dũng tiến lên.
– May thay chị dâu không ngăn cản ta. Mạnh Tướng Công cũng khuyên thầy cho phép ta đi. Ta cũng chưa từng hối hận vì lựa chọn của mình lúc trước. Chỉ riêng đối với thầy, lòng ta lại cảm thấy áy náy.
Nhắc đến chuyện cũ, vẻ mặt chàng sinh động hơn đôi phần.
– Vì thế Nghê Tố, nàng chớ khổ sở vì không thu nhặt được đồ của ta. Cho dù là hài cốt của ta, cũng không quan trọng. Ngoài đồng hoang cũng chẳng thiếu xương người chết cóng, trên chiến trường cũng đầy rẫy xác chiến sĩ tử trận. Hài cốt của bọn họ chẳng được thu nhặt, khâm liệm. Ta ở trong đó cũng chẳng đáng thương.
Chàng nói rất bình thản. Nhưng chợt nhớ đến cảnh đêm qua nàng ngủ trên lưng ngựa vẫn ôm chặt khúc thương gãy kia, trong lòng chẳng thể hình dung được cảm xúc lúc này, chàng nói thêm:
– Nhưng nàng đã làm cho ta rất vui.
Bởi vì nàng muốn khâm liệm cho chàng.
Bởi vì nàng tin tưởng chàng.
Điều này quan trọng hơn hết thảy.
– Ta luôn muốn làm cho chàng vui vẻ.
Nàng đáp lại.
Từ Hạc Tuyết ngước mắt lên. Nàng quấn chặt chăn trên người chỉ để lộ nửa gương mặt ra ngoài, đôi mắt trong sáng động lòng. Chàng chỉ lặng thinh, mặt mày bình thản, sóng mắt khẽ chuyển động.
– Nàng buồn ngủ chưa?
Chàng hỏi.
Nghê Tố lắc đầu:
– Chúng ta nói thêm một lát nữa nhé.
Tay Từ Hạc Tuyết đặt trên đầu gối, lặng lẽ xoa nhẹ để làm dịu cơn đau. Gương mặt chàng vẫn bình thản như thường, chàng hỏi:
– Nàng còn muốn nghe chuyện chi nữa?
Ngọn nến nổ lách tách, Nghê Tố kéo chăn lên một tí để lộ ra cả gương mặt ra, nhích đến gần mép giường, hỏi:
– Chị dâu Công chúa của chàng hẳn cũng là một người tốt nhỉ?
– Ừ. Anh trai lớn hơn ta mười hai tuổi. Chị dâu cũng vậy. Lúc anh trai bận công việc, chị dâu sẽ giúp mẹ ta dạy dỗ ta. Cũng là chị dâu đưa ta đến xin làm học trò của thầy.
Ánh trăng đêm nay rất sáng. Tuy giấy dán cửa sổ của Ung Châu khá dày nhưng vẫn lờ mờ thấy được ánh trăng bàng bạc chiếu lên cửa sổ. Từ Hạc Tuyết nhớ lại đêm ấy ở Vân Kinh. Chàng cùng với cô gái trước mắt này ngã từ trên mái nhà vào trong khu vườn của nhà ai đó. Lúc ấy mắt chàng chẳng nhìn thấy gì, lại ngửi được hương hoa Nguyệt Quý thoang thoảng.
Chị dâu thích hoa Nguyệt Quý, anh trai đích thân trồng rất nhiều hoa Nguyệt Quý trong phủ Công chúa. Từ nhỏ chàng đã quen với mùi hoa này, đến nay vẫn chưa hề quên.
– Thảo nào.
Cuối cùng Nghê Tố cũng biết, vì sao một người lúc sinh thời chịu hàm oan, chịu hình, sau khi qua đời chẳng có ai tế lễ mà vẫn giữ trọn trái tim trong sáng như vậy. Nàng nghĩ, chàng ở giữa biển thi hài của người chết cóng, chiến sĩ tử trận cũng chẳng đáng thương.
Được mẹ Chu Cấm và chị dâu Công chúa Văn Đoan dạy dỗ, chàng chưa từng khinh thường chí hướng của nữ tử, càng chưa từng xem nhẹ tính mạng của nữ tử. Cho dù làm phật lòng các gia tộc ở Ung Châu, chàng cũng dám cứng rắn phá bỏ hủ tục ác độc kìm kẹp nữ tử ở nơi này.
Người trên thế gian như dòng lũ, chàng chẳng nề hà ngược dòng mà đi, buông bút rút kiếm, từ bỏ Vân Kinh gấm vóc tới chốn sa trường đẫm máu. Chàng là quân tử trong văn sĩ, là quân tử trong dũng sĩ.
Ngôn hành nhất trí, chí hướng quang minh.
Nghê Tố lén thò tay ra khỏi chăn, nắm lấy góc tay áo của chàng:
– Vậy lúc sinh thời ở biên quan, nếu không đánh giặc chàng sẽ làm gì?
Chẳng hiểu sao nàng luôn muốn giữ lấy chàng như thế.
Vẻ mặt Từ Hạc Tuyết bình thản, dường như chàng đang nghiêm túc nhớ lại, một lát sau mới nói:
– Uống rượu với người khác, còn tỷ thí võ công, cưỡi ngựa, bắn cung. Đôi khi cũng sẽ tắm cho ngựa của mình nữa…
Vẻ mặt chàng như ấm áp hơn, lại nói tiếp:
– Hình như cũng chẳng làm gì đặc biệt cả.
– Ta lại thấy thật tốt.
Nghê Tố nói:
– Lúc ấy chàng hẳn rất hay cười.
Từ Hạc Tuyết nhìn nàng:
– Chuyện này thì ta không nhớ rõ.
– Vậy khi thắng trận, bọn chàng ăn mừng thế nào?
– Giống mấy chuyện ta vừa kể đấy thôi. Chỉ là Phó tướng của ta rất thích trêu chọc người khác. Anh ấy thường bảo đám người dưới chuốc say ta rồi hè nhau tung ta lên trời.
Nghê Tố khẽ bật cười, hỏi:
– Là người tên Tiết Hoài đại nhân đấy hả?
– Ừ.
Vẻ mặt chàng thoải mái hơn một tí.
– Chúng ta cũng có thể đi cưỡi ngựa.
Nghê Tố vừa ngáp dài, vừa nói:
Thấy mắt nàng hơi ươn ướt, Từ Hạc Tuyết nói:
– Chờ nàng tỉnh lại rồi đi.
Chàng rất thích nghe nàng nói hai từ ‘chúng ta’.
– Sau khi ta ngủ, chàng định làm gì?
Giọng của nàng càng lúc càng nhỏ.
Chàng không còn thân thể máu thịt từ lâu, cũng không cần ngủ nghỉ như người thường. Ban đêm dài đằng đẵng cũng chẳng khác gì ban ngày, hết thảy đều dằn vặt như nhau.
– Không làm gì cả, ta chỉ ở đây chờ nàng.
Chàng sẽ chờ nàng tỉnh lại.
Để mặc nàng nắm lấy tay áo của mình như thế lại thỏa mãn chút khao khát bí ẩn trong lòng của Từ Hạc Tuyết. Chỉ chờ đợi nàng như vậy, chàng cũng cảm thấy thật tốt.
Giọng nói bình tĩnh của chàng làm Nghê Tố an lòng. Suốt quãng đường từ Vân Kinh đến Ung Châu này, chỉ khi chàng trở về, nàng mới thật sự thấy an tâm mà ngủ.
Nàng nhắm mắt lại, hơi thở dần dần trở nên nhẹ nhàng.
Từ Hạc Tuyết ngắm mặt nàng. Hai đầu gối đau nhức làm chàng đi lại khó khăn. Đây là do chàng cố gắng vượt qua Hận Thuỷ để quay về dương thế. Thổ Bá không giúp đỡ chàng quá nhiều, chàng cũng không tham lam.
Chàng chống tay trên mép giường gian nan đứng dậy, cầm thuốc trị thương trên bàn, lấy ít thuốc trên ngón tay rồi cẩn thận bôi lên vết thương trên trán Nghê Tố.
Nàng gầy đi, còn Thanh Khung thì được nàng nuôi béo tốt hơn rất nhiều, chẳng còn dáng vẻ da bọc xương như trước nữa.
Bôi thuốc lên vết thương trong lòng bàn tay cho nàng xong, chàng gác bình thuốc qua một bên. Nến trong phòng này vì chàng mà thắp sáng. Chàng ngồi chờ trên mép giường cho đến khi không thể duy trì được thân hình nữa mới tản ra thành ánh sáng trắng lấp lánh, bay vào giỏ thuốc trong vòng tay nàng.
Nghê Tố cảm giác được trời đã sáng. Ánh nến trong phòng đã tàn. Vừa mở mắt ra, nàng thấy giỏ thuốc đang ôm trong lòng có một quả cầu ánh sáng óng ánh lơ lửng, khi thì trông giống mèo, có khi trông lại như hồ ly.
Nghê Tố vừa chạm nhẹ vào cái đuôi của nó, nó sẽ lập tức bay đến vây quanh tay nàng.
Nàng khẽ nhếch môi mỉm cười.
Hôm nay Nghê Tố cảm thấy khỏe hơn nhiều. Nàng xuống giường, chải tóc, thay áo quần. Trời Ung Châu khô hanh, sau khi rửa mặt xong nàng phải bôi chút dầu thơm, bằng không da sẽ khô rát.
Ngày bình thường Thanh Khung sẽ đến đây từ sớm nhưng hôm nay lại khác. Chờ mãi chẳng thấy hai cha con họ đâu, Nghê Tố thấy bất an, lập tức mang giỏ thuốc lên, đeo khăn che mặt rồi đi ra ngoài.
Trên đường phố, gió cát thổi mù trời. Mọi người lao nhao chạy tới cửa thành. Nghê Tố không hiểu rõ nguyên nhân bèn tới chỗ giếng cạn xem thử, thấy cửa gỗ trên miệng giếng khoá chặt thì biết ngay hai cha con Thanh Khung không ở nhà.
– Có một người Hồ chết ở hồ Mã Não! Nghe nói hắn là quan lớn cơ đấy! Vương Tử người Hồ dẫn binh tới rừng Hồ Dương cách thành trăm dặm đòi giải thích…
– Giải thích cái gì! Nghe nói Giám Quân họ Tống kia muốn đưa tiền với nữ tử cho lũ người Hồ để bồi thường đấy.
– Vì sao lại bồi thường cho bọn nó!
Người dân vội vàng chạy ngang qua, Nghê Tố thỉnh thoảng lại nghe được dăm ba câu trò chuyện của bọn họ.
Hồ Mã Não nằm ngay ngoài cửa thành Ung Châu, cách Tang Khâu không xa. Quân đội Ung Châu đóng quân ở bên ngoài, cách thành Ung Châu độ trăm dặm. Chẳng biết một tên người hồ lại lách qua quân doanh, chết ở gần cửa thành Ung Châu như vậy?
Nghê Tố nhận ra việc này khác thường, tức tốc theo đám người chạy ra cửa thành.
Lúc này cửa thành đóng chặt, binh sĩ mặc áo giáp đứng thành hai hàng. Ở giữa bọn họ là mấy cô gái bị trói tay chân, ai nấy đều tái mét mặt mày, khóc lóc kêu tên người thân. Bên cạnh các cô là một đống hòm xiểng đen nhánh.
Mấy thứ này làm nổi bật lên các cô cũng chẳng khác gì một món hàng, cũng giống như thứ tiền bạc ở hòm mà thôi.
Thống lĩnh Ngụy Đức Xương của quân họ Ngụy mặc nhung trang, liếc nhìn mấy cô gái và tiền bạc trong hòm xiểng, hơi nhíu mày nói:
– Tống Giám Quân, chưa nói chuyện vì sao người Hồ kia lách qua được binh doanh của chúng ta mà chết ở hồ Mã Não, hôm nay ngài đưa mấy cô gái với tiền bạc cho chúng cũng e không làm giảm lửa giận của Vương Tử Tô Khất Lặc kia được đâu.
Mặt Tống Giám Quân âm trầm như nước, nói:
– Ta còn chưa hỏi tội Ngụy Thống Lĩnh anh đấy. Mấy ngày này đóng quân ở rừng Hồ Dương là lính của anh đấy. Người Hồ này là A Đa Nhũng, thủ lĩnh của quân Hồ đang đóng ở Cư Hàm Quan. Anh còn không biết hậu quả chuyện hắn chết ở địa giới bên ta là gì à. Vạn nhất chiến tranh nổ ra thì anh chịu trách nhiệm được chắc?!
– Chiến tranh nổ ra thì cứ đánh là được!
Ánh mắt Ngụy Đức Xương càng nóng giận hơn, nói:
– Hôm nay đưa tiền với nữ tử cho bọn nó thì chúng ta là gì đây?
Ngụy Đức Xương vừa dứt lời, Tống Giám Quân giận dữ, trừng mắt nhìn lại:
– Đánh là được? Cái thứ vũ phu! Anh cũng không nghĩ, có được cảnh thái bình như bây giờ cũng không dễ gì hử!
Một cô gái bỗng khóc nức nở, nói:
– Tôi đã lập gia đình, đang mang thai! Xin chư vị đại nhân tha cho tôi về nhà đi!
– Đang mang thai?
Tống Giám Quân nghiêng mặt, liếc nhìn bụng phẳng của cô gái kia rồi hất cằm ra hiệu cho hộ vệ bên cạnh.
Tên hộ vệ kia lập tức bước tới trước. Trong lúc mọi người chưa kịp hiểu gì, hắn đã cầm vỏ đao thọc mạnh vào bụng của cô gái kia. Cô gái bỗng hét lên một tiếng đau đớn. Tống Giám Quân hờ hững nói:
– Đây chẳng phải là hết rồi à? Nam tử có thể rơi đầu chảy máu thì các cô cũng có thể vì nước mà hy sinh đi chứ.
Thấy cảnh này, Nghê Tố chợt lạnh cả người. Nàng định bước lại gần thì bị binh sĩ ngăn lại, chỉ có thể nhìn qua khe hở trên khuỷu tay binh sĩ thấy trên váy cô gái kia thấm ra một dòng máu đỏ.
– Nguỵ Thống Lĩnh, rốt cuộc việc này không rõ là mưu kế của Đan Khâu hay vì sơ suất của quân đội các anh. Nhưng ta nói cho anh biết. Lúc này nếu kẻ nào dám gây chiến thì kẻ đó là tội nhân của Đại Tề.
Tống Giám Quân lại nhìn Ngụy Đức Xương.
Ngụy Đức Xương siết chặt chuôi đao, sắc mặt cực kỳ khó chịu:
– Nếu là người của quân ta giở trò, không cần Giám Quân nói, ta tất sẽ xử trí. Nhưng nếu muốn quân Ung Châu chúng ta cúi đầu trước lũ người Hồ, Ngụy Đức Xương ta không chịu.
Tống Giám Quân giận, quát lớn:
– Ngụy Đức Xương! Anh có biết đại cục là gì không? Trước mắt chưa có sách lược toàn vẹn, tuỳ tiện giao chiến là hành động ngu ngốc!
– Giám Quân đại nhân.
Một loạt tiếng vó ngựa lộc cộc vang lên, bụi mù bốc lên bốn phía. Tống Giám Quân và Ngụy Đức Xương ngoảnh lại thấy một người to cao cưỡi ngựa chạy đến.
Phía sau của anh ta là một đội thân binh.
Tác phong nghiêm chỉnh, tiếng giáp sắt lạnh lẽo thấu xương.
Ngựa chưa dừng bước, người nọ đã nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa, đè chuôi đao bên hông, bước nhanh tới chỗ Tống Giám Quân và Ngụy Đức Xương.
Anh ta độ chừng ba bốn mươi tuổi, râu dài đen bóng, mặt mày khôi ngô, đoan chính, phong thái lạnh lùng như đã tắm qua máu tươi.
– Nghĩa huynh!
Ngụy Đức Xương vừa thấy anh ta, hàng mày đang nhíu chặt hơi giãn ra.
Tần Kế Huân liếc nhìn lại Nguỵ Đức Xương, lại gật đầu nói với Giám Quân họ Tống:
– Tống Giám Quân, xin phép được nói chuyện riêng với ngài một lúc.
Tống Giám Quân chẳng đáp lời chỉ đi tới một chỗ vắng người. Tần Kế Huân cởi đao bên hông xuống đưa cho Nguỵ Đức Xương, nói:
– Chú cầm giúp anh trước, đừng đi theo anh.
Sau đó anh ta bước tới chỗ của Tống Giám Quân.
Ngụy Đức Xương cầm đao trên tay, đứng tại chỗ nhìn Tần Kế Huân và Tống Giám Quân ở cách đó không xa đang nói chuyện với nhau. Chẳng biết Tần Kế Huân nói gì mà đôi mày đang nhíu chặt của Tống Giám Quân kia bỗng chốc giãn ra.
Hai người nói thêm mấy câu. Ngụy Đức Xương chờ đợi đến phát bực, đang định xả cơn tức lại thấy Tần Kế Huân chắp tay chào Tống Giám Quân, sau đó Giám Quân họ Tống phất tay gọi mấy tên hộ vệ rồi đi khỏi đó.
Thấy Tần Kế Huân quay lại, Ngụy Đức Xương nôn nóng hỏi ngay:
– Nghĩa huynh, anh nói gì với hắn thế?
– Tô Khất Lặc là Vương Tử của Đan Khâu. Số tiền với mấy cô gái kia e là không lọt vào mắt xanh của hắn.
Tần Kế Huân lấy đao lại, ra lệnh cho thân binh:
– Thả các cô ấy ra đi.
– Vậy nên vừa rồi anh đòi tiền tên Tống Giám Quân kia hả?
Nguỵ Đức Xương bỗng hiểu ra, lập tức bật cười:
– Mấy năm nay họ Tống kia cắt xén không biết bao nhiêu quân lương. Anh biết rõ mồn một nhưng lại không nói gì. Bây giờ anh đòi hắn tiền, đương nhiên hắn không thể nói được cái gì rồi.
Tuy triều đình chưa từng giảm quân phí nhưng trên đường vận chuyển từ Vân Kinh tới biên quan, quân phí đã bị tham ô không biết bao nhiêu, tới tay quân lính cũng chỉ đủ duy trì mà thôi.
Tần Kế Huân híp mắt, nói:
– Hồi ở Vương Đình, chính kiến của cái thằng A Đa Nhũng kia chẳng hợp với Tô Khất Lặc. Lần này Tô Khất Lặc nhận lệnh đóng quân ở Cư Hàm Quan đương nhiên không để A Đa Nhũng sống tiếp rồi. Ấy mà đống vỏ ốc này lại rơi lên đầu của chú mày.
Đến tận bây giờ Ngụy Đức Xương vẫn không biết vì sao thi thể của A Đa Nhũng lại ở hồ Mã Não. Anh bèn ôm quyền, nói:
– Nghĩa huynh, em cho người đi điều tra ngay.
– Không cần.
– Vì sao? Chẳng lẽ nghĩa huynh không tin em?
Nguỵ Đức Xương la lên, có vẻ hơi bực bội:
– Nếu là người trong quân của em làm, em sẽ giết cả nhà hắn.
– Nào phải anh không tin chú? Là Giám Quân không tin chú đấy.
Tần Kế Huân liếc anh, nói:
– Tuy anh là chỉ huy của ba quân ở Ung Châu nhưng trên anh còn có một vị Tống Giám Quân nữa. Nếu anh để chú đi điều tra thì hắn sẽ viết tấu đưa về Vân Kinh hặc tội chú đấy.
Nguỵ Đức Xương giận sôi tim.
– Cái thứ quan văn thối tha! Lại còn viết tấu bôi đen người ta!
Tần Kế Huân không muốn dông dài với anh, quay người định lệnh thân binh dắt ngựa tới thì thấy giữa đám người có một cô gái đeo khăn che mặt đang đỡ cô gái chảy máu đầy váy kia lên.
– Cô đừng khóc, để tôi đỡ cô về, chớ ở đây hứng gió, phải uống thuốc điều trị mới được.
Nghê Tố dìu cô đứng dậy, lang quân của cô gái đó run rẩy chạy đến.
Cô gái kia nước mắt đầm đìa, ôm lang quân của mình khóc nức nở.
– Cô chữa được sao?
Tần Kế Huân sải bước đi đến, đôi mắt dữ dằn nhìn Nghê Tố.
– Tôi chữa được.
Nghê Tố đeo khăn che mặt, nhìn anh ta, bình thản đáp lại. Nàng không muốn nói nhiều với người này lại không ngờ anh ta bỗng dưng tháo túi tiền bên hông xuống ném tới cho nàng.
– Vậy xin nhờ cô chữa cho cô ấy.
Tần Kế Huân khẽ hất cằm, thân binh đứng bên cạnh bước tới nhét thêm một túi tiền cho lang quân của cô gái kia. Người nọ nhận tiền, quỳ xuống khóc lóc nói:
– Cảm tạ Tần Tướng Quân.
Tần Kế Huân chẳng thèm để ý, cưỡi ngựa dẫn thân binh đi mất. Nguỵ Đức Xương cũng lập tức lệnh cho binh sĩ đem hòm xiểng nơi cửa thành đi. Nghê Tố cùng chàng trai trẻ tuổi kia đỡ cô gái về nhà bọn họ. Nàng bắt mạch rồi nhìn tình trạng chảy máu của cô gái kia.
Thai nhi chưa đủ ba tháng, lại chịu đòn đánh hiểm như thế làm sao giữ được đây.
Nghê Tố viết đơn thuốc, đưa cho lang quân kia chạy đi bốc thuốc. Chờ cô gái kia uống thuốc xong, nàng dặn dò mấy điều cần chú ý sau khi sảy thai rồi mới một mình đi về.
Thấy cánh cửa gỗ trên miệng giếng vẫn còn khóa như cũ, Nghê Tố đi vòng về ngôi nhà cũ của hai cha con Thanh Khung. Nàng đổ mồ hôi đầy lưng, vừa mở cửa nhà ra thấy ngay hai cha con họ đang ở bên trong, một người cầm lọ sành, một người ngồi trong góc nhà.
– Nghê cô nương.
Thanh Khung đang mơ màng sắp thiếp đi, nghe tiếng cửa nhà kẽo kẹt mở ra bèn ngẩng đầu lên, thấy Nghê Tố đang đi bước vào nhà.
– Hai người đã đi đâu thế?
Nghê Tố nhận ra bộ đồ mới nàng mua tặng cho hai cha con dính đầy bùn dơ.
– Đêm qua cha tôi nghe mẹ tôi nói, bên bờ Hận Thuỷ có rừng lau rất rộng, sương sớm đọng trên hoa lau ở dương gian là nước của Hận Thuỷ biến thành, có tác dụng an hồn. Trước khi trời sáng, tôi với cha tôi đứng chờ cửa thành mở thì ra ngoài hứng sương mai.
– Hai người tới hồ Mã Não hả?
Nghê Tố lập tức hỏi ngay.
– Vâng, ai mà biết chúng tôi lại phát hiện ra một xác chết ở trong hồ…
Phạm Giang chẳng hoảng sợ lắm, dù sao ông là người thành hôn với một hồn ma.
– Chỉ liếc mắt thôi đã biết đó là người Hồ rồi. Tôi tức tốc dắt Thanh Khung quay về tìm lính canh ở cửa thành. Sau đó bọn họ ngay lập tức đi vớt xác chết, đưa hai cha con chúng tôi tới phủ của Tần Tướng Quân hỏi chuyện rồi mới thả cho về nhà.
– May mà sương sớm vẫn còn đây.
Thanh Khung giơ lọ sành lên.
Nghê Tố bước lại gần, thấy lọ sành trên tay hai cha con đầy ắp sương sớm, chẳng biết hai người đã ở hồ Mã Não hứng sương bao lâu.
Nghê Tố chắp tay thi lễ với hai người:
– Cảm tạ hai người.
– Nghê cô nương chớ nói vậy.
Phạm Giang xua tay.
Nghê Tố ngẫm nghĩ, nhét túi tiền Tần Tướng Quân ném cho mình vào tay của Thanh Khung.
– Hai người cầm đi, đừng từ chối. Tối nay chúng ta cùng nhau ăn lẩu đi.
Lẩu?
Cha con Thanh Khung nhìn nhau, thấy rõ mồn một chữ ‘thèm‘ trong ánh mắt của người kia.
Bọn họ sống kham khổ, đã bao giờ mua nhiều thịt dê bò đến vậy đâu. Hai người cùng nhau chuẩn bị một nồi lẩu, lại thấy Nghê Tố đang nhào bột.
Thanh Khung thái thịt xong, lau tay rồi đi qua hỏi:
– Nghê cô nương định nấu món gì đấy?
Tóc mai phất qua má, Nghê Tố cảm thấy hơi ngứa, đưa tay lên chùi một thoáng làm bột mì dính trên mặt mà chẳng hề hay biết. Nàng trả lời Thanh Khung:
– Tôi tính làm bánh đường.
Ở Ung Châu không có loại bánh này. Thanh Khung “à” đáp lại, đứng bên cạnh nhìn Nghê Tố làm bánh. Thấy nàng có vẻ hơi vụng về, cậu bèn hỏi:
– Nghê cô nương, cô biết làm bánh thật không đấy?
– Cậu chớ làm ồn.
Nghê Tố cũng hơi luống cuống.
Màn đêm buông xuống, trong phòng đèn đuốc sáng trưng, nồi lẩu đã sôi ùng ục mà cha con Thanh Khung vẫn chưa ai chịu động đũa. Mãi cho đến khi quả cầu ánh sáng trong giỏ thuốc trên người Nghê Tố tản ra, Thanh Khung mới kêu lên:
– Từ Tướng Quân.
Cậu thấy làn sương mù dần ngưng tụ thành một bóng người.
Nghê Tố lập tức quay đầu lại, thấy một người đứng sau lưng mình từ khi nào.
Nàng nhìn vào mắt chàng, bưng một đĩa bánh đường trên kệ bếp đến:
– Từ Tử Lăng, ta biết làm bánh rồi này.
Mẻ bánh đường rán vàng rộm, cái nào cái nấy đều căng tròn ngon mắt.
Trông chẳng khác gì bánh đường của các sạp hàng ở Vân Kinh.
Từ Hạc Tuyết lại chỉ nhìn mấy điểm đo đỏ trên mu bàn tay nàng, lẳng lặng chạm nhẹ vào tay nàng.
Được tay chàng chạm vào, mấy vết bỏng trên tay lập tức bớt sưng đỏ. Người chàng vẫn luôn lạnh lẽo như thế, tựa như băng tuyết. Nghê Tố cầm một cái bánh đường đưa cho chàng:
– Chàng mau nếm thử xem.
Từ Hạc Tuyết không cầm lấy ngay. Thấy vết bột mì chưa lau sạch trên mặt nàng, đôi mắt lưu ly vẫn luôn lạnh nhạt của khẽ thay đổi.
– Tèm lem.
Chàng nói.
Nghê Tố ngơ ngác.
Từ Hạc Tuyết ngửi được hương đường đỏ xen lẫn bên trong mùi thơm của bánh đường. Hai ngón tay chàng kéo lấy tay áo, nhẹ nhàng lau đi vết bẩn trên má nàng.
------oOo------
Chia sẻ cảm nghĩ của bạn nhé!
Vui lòng đăng nhập để tham gia bình luận cùng chúng mình 💗